. . . . LONG HOA MẬT TẠNG QUYỂN 3 ~ tranminhthang1145

Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2016

LONG HOA MẬT TẠNG QUYỂN 3

QUỐC BẢO CHÂN KINH

LONG

HOA

MẬT TẠNG

KINH

THIÊN ẤN - THIÊN BÚT

GÒ HỘI

ĐỨC PHỔ - QUẢNG NGÃI

2000

Cao Đức Thắng



QUYỂN 3


CHƯƠNG 9

PHẦN 2

TU THIỀN

Tu Thiền là gì?
Nói một cách ngắn gọn dễ hiểu. Tu Thiền là làm cho tâm trí lắng yên, bình an, nhẹ nhàng thoải mái, hiệu quả của sự lắng yên tâm trí là làm phát sanh trí huệ, giống như ngọn lửa đang cháy hoặc lụn tàn, đổ thêm ngụm dầu làm cho ngọn lửa bừng sáng bốc lên cao.

Tu Thiền có hai cách:  ĐỊNH sanh THIỀN và THIỀN sanh ĐỊNH.

Định: là tập trung tư tưởng vào một điểm cố định chú tâm lắng suy nghỉ. Làm cho tâm trí yên lặng đó là Thiền.

Sơ Thiền: là thư giản buông thả tất cả, không vướng bận chi hết, lắng yên tâm thức bình an nhẹ nhàng, sự lắng yên Tâm Thức ấy gọi là Thiền sanh Định, cũng giống như ăn để sống, sống là do ăn Thiền sanh Định. Định sanh Thiền cũng vậy mà thôi, hể có Thiền thời sanh Định, hể có Định thời sanh Thiền. Như vậy Thiền Định là một phương pháp mật tạng vũ trụ, làm cho tâm trí bình an, nhẹ nhàng, tỉnh lặng, xóa tan đi những năm tháng lao tâm, lao trí mệt mõi.

Nói về Thiền, thời có từng bật cao thấp khác nhau, thư giản dứt căng thẳng lo âu đó cũng là Thiền. Tiến sâu hơn nữa là buôn thả tất cả tâm hồn tỉnh lặng, Đạo Thiền. Tiến sâu hơn nữa, giác ngộ Chân Tâm, Chân Tánh, an trụ Chân Tâm Chân Tánh, Chánh Đẳng Chánh Giác, tối thượng Thiền, Chánh Định, Tâm Hồn đã an trụ Chánh Định, thời coi như đã vào cảnh giới Cực Lạc.

Nói về tu thiền luyện khí, luyện Đạo, luyện Quyền, luyện pháp, không phải bây giờ mới có mà đã có từ khi con người ra đời, nếu nói con người ra đời đầu Tiên vũ trụ thời xa xưa lắm, không có số lượng nào ví dụ được, vô số vô biên. Còn nói gần thời con người ra đời trên quả Địa Cầu nầy, thời cách đây 75 triệu 600 nghìn năm, trải qua gần 5 tiểu kiếp. Còn nói gần hơn nữa, tức là đầu tiểu kiếp thứ 9 người nguyên thủy, những người sống sót cuối tiểu kiếp thứ 8. Cách đây năm nghìn năm, Quốc Tổ Hùng Vương ra đời. Ở vào thời kỳ nhân loại đã tiến hóa trên đà văn minh ý tưởng khắp đó đây, khắp vùng phương Đông đã có trên 60 giáo phái, mỗi giáo phái đều có sở trường khác nhau, nhưng nói chung mục đích là đưa con người đạt đến đỉnh cao, xưng hùng xưng bá thống trị Thiên Hạ.

Nói đến Thiền Định, thời mỗi giáo phái đều có cách tu thiền luyện Định, ở bước đầu khác nhau như phái Thần Lửa. Định sanh Thiền. Ngồi xếp bằng nhìn vào ngọn nến cách đó không xa, tập trung tinh thần, chăm chú nhìn ngọn nến không chớp mắt, sau đó nhắm mắt lại và hình dung ngọn nến ở ngay điểm chính giữa hai chân mày, với phương pháp này, phái Thần Lửa Định tâm nhờ an trụ vào ngọn nến, nhờ định Tâm mà sanh Thiền. Thiền đã sanh thời Định tâm càng thêm kiến cố, tiến sâu hơn các tu sỉ, Đạo sỉ phái Thần Lửa này vận hành ngọn lửa Tâm Linh chạy khắp Châu thân, gọi đó là luyện Đạo, rồi ứng dụng ra quyền pháp, quyền thuật và đỉnh cao của giáo phái này là ngũ thông, lẩn quẩn trong cảnh giới của Địa Tiên.

Ở vào thời kỳ này có tới hơn 60 giáo phái như phái Thần Quyền, phái Luyện Chú, phái Tuyệt Thực, phái Hít Thở, phái Luyện Đan v.v… Đỉnh cao của các giáo phái này cũng không hơn được giáo phái Thần Lửa, cũng chỉ ở cảnh giới ngũ thông cảnh giới của Địa Tiên mà thôi. Nói chung các giáo phái ở vào thời kỳ ấy hầu hết là theo phương pháp, chú tâm vào một điểm nào đó để sanh thiền. Các giáo phái này còn mãi dò dẩm trong đêm tối, lẩn quẩn trong sanh tử, khó mà thoát khỏi luân hồi lục Đạo. Bị cái thấy, nghe, hay, biết của chính mình xây chuyển, khởi tâm chấp trước phân biệt khởi nghiệp liên miên.

Còn tu thiền sanh Định là lối tu khó hơn, như phái Du già sau này thành phái Tăng già, là do quán tưởng sanh Định. Sơ căn của tu Thiền là thư giãn buôn thả từ từ, cho đến buôn thả hoàn toàn, không vướng bận chi cả, giãi tỏa cảm giác căng thẳng bận bịu vướng víu Tiến xa hơn nữa là dứt lần dục niệm, cội căn gốc rễ của mọi tội lỗi lầm cho tâm hồn trở nên trong sáng an lạc. Nhờ vào ý thức giác ngộ định tâm trở lại gọi đó là Thiền.

Nói tốm lại sơ căn của tu Thiền là thư giãn buôn thả từ từ, cho đến lúc buôn thả hoàn toàn giãi tỏa cảm giác căn thẳng yên tỉnh sâu lắng thanh thỏa tâm hồn. Đó là Thiền, nhờ công năng của Thiền. Định tâm trở lại, Thiền sanh Định. Tiến xa hơn nữa. Nhờ định tâm trở lại phát hiện những cái mà xưa nay mình không nghỉ tới. Có thể nói là lầm đường lạc lối sanh tâm nhàm chán, mãi chạy theo vô thường biển khổ lúc nào cũng căn thẳng mệt mõi và kết quả cũng chỉ là con số không. Tâm hồn sa đọa, tương lai mờ mịt. Nhìn cảnh xô bồ vật lộn với đời. Đấu đá nhau dẩn đến lưỡng bại câu thương. Chạy theo dục vọng thấp hèn xa rời Đạo Đức, làm suy thoái truyền thống Đạo Đức Cha ông đúng là khổ, càng nghỉ càng sanh nhàm chán, sự nhàm chán ấy gọi là Thiền. Nhàm chán càng mảnh liệt, thời Định Tâm càng kiên cố bấy nhiêu. Và cứ thế Định Tâm càng lớn thời trí huệ càng tăng. Trí Huệ càng tăng, thời giác ngộ càng cao. Giác ngộ càng cao, thời Thiền trở nên kiến cố. Thiền trở nên kiên cố, thời Định Tâm như nước như non. Trí huệ trở nên Thánh Thiện. Tối cao của trường phái này là đạt đến cảnh giới Thiên Tiên chứng lục thông đang đà đi trên con đường giải thoát. Văn Hóa Cội Nguồn còn xa lắm đối với các trường phái này, huống chi các trường phái Thần giáo. Bà La Môn giáo thời còn xa vời vợi Văn Hóa Cội Nguồn hơn nữa.

Còn tu Thiền của Thái Tử là sự tu Thiền của Đấng Đại giác ngộ, không có một phái nào sánh kịp. Tu Thiền luyện khí của phương pháp tối thượng Thừa, của bật Chánh Đẳng Chánh Giác Đấng cứu thế. Theo nguyên lý sự sống con người vật chất nuôi thể xác. Đạo lý nuôi Linh Hồn. Theo quan niệm cuộc sống những lý luận xa vời thực tế thiếu khoa học, sẽ làm cho Linh Hồn lụn bại ngu xuẩn làm hại mình hại người. Ở đời ai cũng biết vật chất nuôi thế xác, nhưng vật chất đó tạp nhiểm chất độc hoặc ít hàm lượng chất bổ, thời kết quả sẽ ra sao khi ta ăn hoặc uống những vật chất tạp nhiểm chất Độc đó. Có phải những vật chất độc hại ấy làm cho cơ thể ta nhiểm Độc theo phát sinh bịnh tật gầy yếu mất sức. Còn ngược lại vật chất trong sạch, không nhiểm Độc, lại dồi dào chất bổ. Sẽ làm cho cơ thể ta khỏe mạnh lạc quan yêu đời.

Như ta đã biết vật chất dưỡng nuôi thể xác Đạo lý dưỡng nuôi Linh Hồn. Chúng ta tiếp thu Đạo lý trong sáng, sẽ làm cho Tâm Hồn trong sáng Thánh Thiện. Vì Đạo là món ăn tinh Thần của Linh Hồn. Đạo Lý nói ra thì nhiều nhưng tốm lại thì có hai mà thôi. Ác và Thiện, Phi Nghĩa và Chính Nghĩa. Người tu thiền luyện khí càng lên cao thời Tâm Hồn càng hướng về Chính Nghĩa, xa cuồng loạn, thời hợp lẽ trời thuận Thiên mệnh. Nhờ thuận Thiên mệnh, muôn phước vạn lành theo cuộc sống hiện ra và tiến tới tu Thiền luyện khí của bật đại giác ngộ.

Bằng ngược lại tu Thiền luyện khí lên cao tham cầu dục vọng xa rời Chính Nghĩa. Cuồn loạn tà Tâm, thời hậu họa không biết đâu mà lường. Theo lẽ người tu Thiền luyện khí kéo dài tuổi thọ nhưng vì Tâm Hồn hướng về nẽo ác phi Nghĩa. Cơ thể không dung hòa được Thủy, Hỏa, Phong, trong nội thể. Nặng thời tẩu hỏa nhập Ma, Tâm Hồn trở nên điên loạn ác độc tàn bạo vô cùng, đi lần đến sự hủy diệt. Nhẹ thời suy tim, suy gan, suy thận, giảm đi tuổi thọ.

Thường tu Thiền luyện khí, thời phải nương theo cảnh quang trong lành, thanh vắng yên tỉnh, sẽ làm cho tâm hồn để định tỉnh hơn, chỉ trường hợp những bật Đại giác ngộ đã chứng quả Ba La Mật. Hội ngộ Chân Tánh, Thật Tánh, Thật Tướng, Thật Pháp, Thiên Tạng, Luật Tạng, Pháp Tạng vũ trụ như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Thời dù ở chổ nào Thân Tâm vẩn thường thanh tịnh không tu không chứng không đắc gì cả, tùy nhân duyên sanh ra đời cứu thế mà thôi. Như Quốc Tổ Vua Hùng chẳng hạn, và còn không biết bao nhiêu vị đã xuống thế, hộ trì giữ gìn Văn Hóa Thiên ẤN, Thiên Bút Cội Nguồn.

Tu Thiền luyện khí là mật Tạng vũ trụ, đưa Hành giã trở lại Cội Nguồn. Quả của tu Thiền là an lạc tâm hồn trí huệ sáng soi. Quả của luyện khí là sức khỏe dồi dào tăng thêm tuổi thọ. Tu Thiền luyện khí là Mật Tạng linh hồn, làm cho các giác quan khai mở linh hoạt nhậy bén, thông minh kỳ lạ, Thấu suốt quá khứ vị lai, khám phá ra nhiều điều kỳ thú, tiến tới cảnh làm chủ bản thân, làm chủ Tâm Linh, làm chủ vũ trụ.

Đỉnh cao của tu Thiền là nhận ra bộ mặt thật của Linh Hồn. Minh Tâm Kiến tánh làm chủ Chân Tánh, làm chủ giác Tánh, tiến tới ngôi vị Chánh Đẳng Chánh Giác, vào cảnh giới vi Diệu thậm thâm, không thể suy nghỉ hay luận bàn được nữa.

Sự tu Thiền luyện khí của Thái Tử, không giống các Đạo sỉ, Tu sỉ của các giáo phái thời đó. Dọ dẩm từng bước và mỗi bước tu Thiền luyện khí, cho rằng chứng Đạo hay đắc Đạo.

Thái Tử vượt qua những chứng đắc chấp trước này của các Đạo sỉ, Tu sỉ của các giáo phái, tiểu thừa, trung thừa. Thái Tử nói. Mỗi tâm Linh từ bản thể Linh giác vũ trụ đi ra, khi trở về bản thể mỗi đoạn đường là mỗi mùa xuân. Do mật Tạng tâm Linh hiện ra mà thôi, không có gì mới mẻ cả.

Các giáo sỉ, Đạo sỉ, Tu sỉ của các giáo phái, vì không hiểu Mật Tạng Tâm Linh, Thức tánh, Chân tánh của mình, có những công năng diệu dụng như vậy, chẳng khác nào kính được lau chùi sáng ra mà thôi. Cũng giống như người lực sĩ bị trói, làm giảm đi sức mạnh cũng như tài năng của mình. Tu Thiền luyện khí chính là phương pháp mở trói, khi trói đã được mở thời người lực sĩ tung bay thể hiện tài năng thấy, nghe, hay, biết của mình. Mỗi nất thiền là mỗi lớp mở trói, mở trói cho đến khi không còn trói buộc bất cứ điều gì, thật sự tự do, thật sự giải thoát, thời liền nhận ra chân Tánh bộ mặt thật bí mật của Tâm Linh. Ông Tổ của muôn loại Thần Thông. Quyền năng vô hạn, ra khỏi sanh tử ở mãi ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác, tùy nhân duyên trở lại phàm trần cứu đời độ thế mà thôi.

Các Đấng Đại Giác này từ Cội Nguồn đi ra rồi trở về Cội Nguồn một cách an toàn. Nói chung tất cả Tâm Linh cũng từ Cội Nguồn đi ra nhưng vì bị trói trong nghiệp lực. Lại quên mất đường về, bị vô minh che lấp Chân Tánh của họ. Nhìn thấy cảnh bị trói trong nghiệp lực, lại quên mất đường về Cội Nguồn, thọ lảnh đủ quả khổ, vì thương nhân loại Đức Chí Tôn mới xuống trần, mở đường chỉ đường cho nhân loại, trở về Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng Chánh giác ngôi nhà chung vũ trụ. Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần sanh ra từ bụng mẹ như bao nhiêu người khác. Nhưng ý chí, trí huệ, lòng từ bi thời khác hẳn người phàm, rồi trở thành Đấng Cứu Thế.

Trên bước đường trở về vũ trụ. Thái Tử không đi trên con đường tiểu thừa mà đi trên con đường Đại Thừa, Thượng Thừa, tối Thượng thừa. Không đi trên con đường Tiểu Đạo mà đi trên con đường Đại Đạo. Con đường Tự Do Đại Đồng Bình Đẳng. Chủ Nghĩa Đại Đồng chính là Văn Hóa Cội Nguồn. Không phân biệt Tôn giáo, Đảng phái, Chủng tộc, màu da, sang hèn, thiện ác. Ai đi trên con đường Đại Đạo Đại Đồng thượng thừa này, cứ mỗi bước chân là mỗi bông Hoa hạnh phúc, mỗi nất thang là mỗi tần mùa xuân.

Sự tu Thiền luyện khí của Thái Tử là phương pháp tối thượng thừa, phá vở nhân duyên nghiệp lực, cỡi bỏ phiền não nhanh chóng. Làm chủ ý thức, làm chủ Chân Tánh, tiến tới làm chủ vũ trụ, để rồi trở thành Đấng Cứu Thế, đưa nhân loại tới bến bờ giải thoát. Phát huy Chân Tánh an trụ vào cảnh giới Đại Đồng, muôn ý thành một ý, muôn Tánh thành một Tánh, sức mạnh Tâm Linh, ý chí Tâm Linh, ánh sáng Tâm Linh bộc phát dữ dội, phá vỡ vô minh nhanh chóng. Chúng ta nên lưu ý, mỗi tâm Linh con người là cả một thế giới Tánh Linh trong đó, có thể nói có tới 8 muôn 4 nghìn Tánh Linh, mỗi Tánh Linh có vô lượng Tánh Linh đồng chủng của nó. Ví dụ Tánh Tham, không phải chỉ có một tánh mà có vô lượng vô biên tánh tham đồng chủng tánh của nó. Tánh sân hận, Tánh ngu si, Tánh ngạo mạn, Tánh Đa nghi, Tánh bảo thủ, Tánh ganh ghét, mỗi Tánh đều có vô lượng vô biên tánh đồng chủng tánh với nó. Mỗi tâm Linh con người là cả một Vương Quốc Tánh Linh và chỉ có Chân Tánh mới có đủ khả năng làm chủ Vương Quốc Tâm Linh đó mà thôi. Còn 8 muôn 4 nghìn tánh do ý thức phân biệt khởi tạo ra đều là giã tánh, nên mỗi sở tánh trong tâm, không đủ quyền lực thống nhất Vương Quốc Tâm Linh mà chỉ có Chân Tánh mới đủ khả năng đó.

Mỗi Vương Quốc Tâm Linh của mỗi con người khi Chân Tánh chưa xuất hiện, thời Vương Quốc Tâm Linh đó thường hay đảo lộn, lúc thế này, lúc thế kia vì không có Tánh chủ Tánh. Cũng như một đất nước không Vua, thế lực nào mạnh tạm thời thế lực đó làm Vua mà thôi, hết phước hết lực, thời thế mạnh hơn, khác tánh lên thay vậy, cứ thế lặp đi lặp lại mãi điên đảo. đảo điên luân hồi vạn nẽo.

Kết luận Vương Tánh chính là Chân Tánh mà Chân Tánh là chủ của 8 muôn 4 nghìn chủng Tánh, chủng Tánh chính là sở Tánh, sở Tánh do Chân Tánh, lúc còn mê gọi là vô minh, vọng chấp phân biệt tạo khởi ra. Ví như nước, khởi tạo ra bọt nước, nước thời chỉ có một nhưng bọt nước thời nhiều. Dứt mê chấp gọi đó là Ngộ. Chủng tánh, sở tánh biến mất, trở về Chân Tánh, bọt nước tan biến trở về là nước. Vương Tánh, Chân Tánh xuất hiện liền làm chủ Vương Quốc Tánh Linh của mình. Mỗi Niệm của Vương Tánh, Chân Tánh là mỗi Niệm giác tha, giác hạnh làm cho Vương Quốc Tánh Linh Chủng Tánh. Hội Ngộ hội nhập thống nhất thành một khối tự do, Độc Lập, Bình Đẳng. Đại Đồng.

Nhờ sự thống nhất muôn vạn tánh trở về một tánh, muôn ý trở về một ý. Tâm Linh của Thái Tử trở nên mạnh mẽ phi thường dồn hết sức lực vào cảnh giới tu Thiền luyện khí nên tốc độ thành tựu nhị xác thân mau chóng hình thành không có mấy người tu hành theo kịp.

Hỏi: Niệm niệm Chân Tánh có quyền lực đến thế sao?

Đáp: Đó là niệm của Chánh Đẳng Chánh giác do Chân Tánh phát ra, không những mỗi niệm có hiệu lực diệt vô lượng phiền não tội ác, còn có sức mạnh phá vỡ Địa Ngục sanh tử, hàng chục vô lượng vô biên chủng tánh sở tánh trong tâm.

Chân Tánh là tánh tự nhiên. Tánh không Tánh, cũng là một thứ Tánh trong sạch vô vi mỗi niệm tánh này. Là mỗi niệm Chánh giác, diệt vô lượng vô biên phiền não, vô lượng vô biên tội ác, làm cho thế giới tâm Linh trở nên trong sáng, phát sanh Công Đức không thể nghỉ bàn.

Tánh thanh tịnh, ý thanh tịnh, trí thanh tịnh, cảnh giới tu Thiền trong tâm thức đã bước sang giai đoạn Đại Đồng, giai đoạn Tâm Tánh, ý thức, trí thức hợp nhất, liền hiển lộ Thần Thông. Giống như người lực sĩ tự mở sạch trói liền phát huy tác dụng sẵn có của mình. Như kính lau sạch bụi thời tất cả điều hiện rõ trong đó. ((Minh tâm Kiến tánh)).

Linh Hồn con người đã trải qua vô lượng ức kiếp, mỗi kiếp ví như mỗi gon tàu nối dài vô tận, thành một chuỗi nhân duyên, từ quá khứ đến hiện tại, kiếp hiện tại là Đầu Tàu. Một phần tác động bởi nghiệp lực quá khứ, một phần do dục vọng ý thức trì níu cảnh giới hiện tại lao thẳng về trước, gieo mầm Thiện, ác kết quả nhân duyên nghiệp lực, luân chuyển trong ba đường sáu nẽo. Lên thiên Đàng hay xuống Địa ngục đều kết tập nhân duyên ở kiếp hiện tại này.

Thái Tử vì quá hiểu rõ như vậy, nên mở đường cho nhân loại trở về Cội Nguồn, sống trên Thiên Đàng Cực Lạc. Nhờ hội Ngộ Chân Tánh sớm. Mặt Trời trí huệ của Thái Tử sáng soi, nên tu Thiền luyện khí thành tựu nhanh chóng. Các giác quan phát huy tác dụng hiển lộ Thần Thông. Tai, mắt, nghe, thấy khắp Địa Cầu, lần lần đến các Cung Trời. Theo như các Đạo sĩ, Tu sĩ, giáo sĩ cho đây là chứng Đạo, thành Đạo, Đắc Đạo. Thái Tử thời lại khác, đây là chuyện bình thường không có gì lạ cả. Nên Thái Tử thấy cũng như không thấy, nghe cũng như không nghe, không khỡi ý tưởng phân biệt Thân tâm luôn luôn thanh tịnh. Vì Thái Tử hiểu rõ thật Tướng vũ trụ là không tướng, thật Tánh vũ trụ là không Tánh, thật sắc vũ trụ là không sắc. Những cảnh giới Thiên Đàng. Trần gian, Địa Ngục là do Âm Dương phân định, nhân duyên kết tập, Thiện, Ác, Mê, Ngộ phân ngôi phước họa luân phiên quả, không có chi là lạ cả, còn duyên thì nhóm hết duyên thì tan. Còn phước thì giàu sang, Quyền thế, hết phước thời nghèo khó, nói chẳng ai nghe, vô thường chuyển đổi có gì mới mẻ đâu, làm chủ ý thức, làm chủ Chân Tánh, làm chủ vũ trụ đó là việc nên làm.

Tìm ra con đường cứu thế đáng quan tâm. Thái Tử hiểu rõ, con đường cứu thế không ở cõi trời, không ở nhân gian, không ở Địa Ngục mà ở ngay tâm Hồn của chính mình, Chân Tánh của mình tiến tới làm chủ vũ trụ, sống tự do Bình Đẳng, trong cảnh giới Đại Đồng an lạc hạnh phúc không còn sanh tử nữa. Cảnh quan vũ trụ đã hiện ra trước mắt nhưng Thái Tử không chú ý mà chỉ chú tâm tu Thiền luyện khí mà thôi. Càng tu Thiền luyện khí càng thấy cơ thể nhẹ nhàng như muốn bay bổng lên không, điều này cũng không có gì là khó hiểu. Theo Nguyên lý vũ trụ. Lực ép Khí, Khí ép Nước, Nước ép đất. Hay nói một cách khác. Thể Lực ép Thể Hơi, Thể Hơi ép Thể Lỏng, Thể Lỏng ép Thể Đặc, cũng vì theo nguyên lý tự nhiên trên, Trái Đất không dễ gì nổ tung được. Khi nào lực vũ trụ yếu đi, thời Trái Đất sẽ nổ. Thân thể con người là Tứ Đại giả hợp Đất, nước, gió, lửa mà phần lớn của con người, Thể Đặc là chính nên con người dù đang sống trên mặt Địa Cầu, không bị tung bay ra không gian với tốc độ quay của nó. Biết rằng với tốc độ quay của nó đã tạo ra lực hút nhưng không đáng kể so với lực ép vũ trụ. Thể Đặc bị Thể Lỏng ép, Thể Lỏng bị Thể Hơi ép, Thể Hơi bị Thể Lực ép. Mà con người là một khối Thể Đặc, thời không cách gì bay ra khỏi mặt Địa Cầu, phải hiểu bộ máy huyền vi của vũ trụ, điều khiển chúng và làm chủ chúng.

Hay nói ngược lại, Thể Lực hút Thể Hơi, Thể Hơi hút Thể Lỏng, Thể Lỏng hút Thể Đặc, sự hút, ép đó không phải do Thể Lực tự chủ mà do Thể Chủ của Thể Lực. Nói về Thể Chủ của Thể Lực vũ trụ chính là bản thể Linh giác của Tổ Tiên. Bản thể rộng lớn khắp hư không tác Động thành lập vũ trụ. Di trì sự sống vũ trụ.

Nói về con người chính là bản thể Linh giác, Linh Hồn con người, duy trì sự sống con người, Thể Chủ của Lực, thu hút vật chất tác động qua lực. Như Thái Tử tu Thiền luyện khí là do Linh giác Thái Tử chủ trì. Tốm thâu vô cực. Thái Cực Chân nguyên vũ trụ. Chân Khí - Thể Hơi - Thể Lỏng vũ trụ tích tụ vào cơ thể. Sức mạnh Thần Thông cứ thế tăng lần lên. Đạt đến cảnh giới, Di sơn Đão Hải. Từ sức mạnh con người trở thành sức mạnh vũ trụ. Không những Thái Tử hiểu rõ sự hình thành của Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc mà còn hiểu rõ sự tiến hóa, cũng như móc xích liên hoàn ép, hút của nó. Mà các thể trung gian luôn luôn đóng vai trò quan trọng. Chẳng hạn như Thể Hơi Chân Khí vũ trụ không những là trung gian của Thể Lực và Thể Lỏng bao bọc xung quanh Trái Đất, bảo tồn sự sống cho quả Địa Cầu. Mà còn rất quan trọng trong thể xác con người, luyện khí càng nhiều sức lực càng mạnh, luyện khí càng cao thi thể càng nhẹ nhàng, làm giảm đi sức ép vũ trụ, tự nổi lần lần giống như bong bóng sắt chìm mãi ở đáy nước, bổng được bơm hơi vào tự nổi lần lên. Bong bóng tự thấy mình càng lúc càng nhẹ nhàng vì không khí bơm càng lúc càng nhiều vào cơ thể bong bóng.

Nói tốm lại. Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc đều có sự co giãn của nóng lạnh, ép, hút, lực vũ trụ, nhất là Thể Lỏng Thể Hơi có Lực đẩy phản hồi rất mạnh, lại Lực ép vũ trụ, không những thế, Thể Hơi Thể Lỏng tự phân định nổi chìm, nặng nhẹ khác nhau.

Giữa các tiểu kiếp, lớp thì bao bọc trái Đất dâng cao 8 muôn 4 nghìn lớp chia làm 3 phần, Thượng, Trung, Hạ. Thượng có 3 phần, Thượng Thượng - Thượng Trung - Thượng Hạ, Trung Thượng - Trung Trung - Trung Hạ, Hạ Thượng - Hạ Trung - Hạ Hạ.

Nói chung Thể Hơi gồm 3 phần, chín Địa Khí như thế, tự do phân định thứ lớp, non nhẹ thời nổi lên trên tiếp giáp với chân không vũ trụ, còn khí già thì bị ép chìm xuống tiếp giáp mặt đất. Lớp khí già là lớp khí chuyển sang Thể Lỏng Hơi Nước rồi từ hơi nước chuyển thành nước. Ba muôn lớp khí già tiếp giáp với mặt Địa Cầu, khí nóng là hơi, khí lạnh là nước. Nhất là mười nghìn lớp khí già, bị lực vũ trụ ép chìm xuống mặt Địa Cầu, khi nóng bốc hơi tạo thành cả nghìn lớp mây, khi lạnh liền chuyển thành nước rơi xuống mặt Đất gây ra lụt lội. Nhất là gần cuối tiểu kiếp gây ra các trận Đại Hồng Thủy, gây kiếp nạn cho nhân loại con người.

Thái Tử khi thành Chánh quả thuyết giáo nói rằng. Nhân Loại hiện nay ở vào giai đoạn gần cuối tiểu kiếp, chỉ còn 10 nghìn năm nữa là hết tiểu kiếp thứ 9, chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, ba tần chín địa lớp khí già này càng về sau càng thái chuyển thành nước, làm cho nước biển càng về sau càng dâng cao, gây ra những trận Đại Hồng Thủy diệt vong sự sống con người, nhất là những thế kỷ gần cuối tiểu kiếp, không chỉ là nước biển dâng cao và các trận Đại Hồng Thủy không đâu. Mà còn có cả Hỏa, phong, nhiệt độ nóng lạnh tăng cao bão lớn mà còn có cả Động Đất liên miên, hủy diệt nhân loại con người. Những ai còn sống sót chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, trở thành người Hồng Hoang Bàng Cổ sơ khai.

Ở vào thời kỳ Thái Tử ra đời, ba muôn lớp khí non, hầu như cạn kiệt biến mất, chỉ còn lại mờ nhạc rất hiếm. Ở vào thời kỳ con người dần dần nặng nề, con người tu thiền luyện khí, kết tụ nhị xác thân tinh khí thần, hầu như không đạt được đỉnh cao thường thường là chỉ ở vào cảnh giới của Địa Tiên ít ai đạt đến cảnh giới của Thiên Tiên. Lớp khí non là Thái Lực Chân Nguyên, Tiên Thiên Chân Khí, lớp khí này hầu như biến đi cạn kiệt gần hết, chỉ còn lớp khí già dày đặc Hậu Thiên Chân Khí.

Hậu Thiên Chân Khí hay còn gọi là Địa Thiên Chân Khí. Ở vào thời kỳ này người tu thiền luyện khí khó có người tu luyện thành nhị xác thân Tiên Thiên mà chỉ tu luyện thành nhị xác thân Hậu Thiên, Địa Thiên mà thôi. Nên khó đạt đến cảnh giới thượng thừa, ngang tầm với Thiên Tiên được. Nhưng Thái Tử thời lại khác, vì Thái Tử chính là Đức Chí Tôn đầu thai, đã trải qua vô lượng kiếp tu hành thanh tịnh, khí Tiên Thiên lúc nào cũng tích tụ nơi tâm Hồn Thái Tử. Nên hào quang nơi Tâm Thái Tử lúc nào cũng sáng soi khắp cùng Trái Đất. Hay nói một cách dễ hiểu, Tâm Hồn Thái Tử lúc nào cũng tràng đầy tìm lực, ẩn tàng khí Tiên Thiên mà không phải người nào cũng có.

Thái Tử thu nạp Chân Khí vũ trụ, hội tụ ở Đan Điền, để cho Âm khí Dương khí giao hòa với nhau kết sanh nhị xác thân. Nhị xác thân hình thành tới đâu, thời ngũ thông hiển lộ tới đó, Thái Tử càng lúc càng thấy những thứ, người thường không thể nào thấy được, tai Thái Tử nghe những tiếng mà người thường không thể nào nghe được, Thái Tử cảm nhận sự biến đổi trong đời sống xã hội mà người thường không thể nào cảm nhận được.

Thái Tử giờ đây đã thấy rõ nhân loại, nhân gian phàm trần, đang sống trên biển nước loãng, tức là phần khí già bao bọc xung quanh quả đất. Còn nước biển Đại Dương hay ở sông hồ, đó chẳng qua là do biến động của Âm Dương, nóng, lạnh, làm cho Thể Lỏng ở dạng lúc là nước, lúc là khí. Không những thế Thái Tử còn thấy rõ, ngoài quả Địa Cầu này ra còn 4 quả Địa Cầu khác, có nhân loại phàm trần đang sanh sống đông đúc, nhưng sự thấy này không phải là mục đích, mục tiêu mà Thái Tử đang tìm. Đang tìm là Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên Đạo vũ trụ Chủ Nghĩa Đại Đồng, mở đường cứu thoát nhân loại. Đây mới chính là mục tiêu, mục đích của Thái Tử, vì vậy Thái Tử cần phải nổ lực nhiều hơn nữa đạt đến đỉnh Quả trí huệ cao nhất, mới đủ khả năng mở ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo Thiên Ấn vũ trụ. Vì thế Thái Tử vẩn tiếp tục tu thiền luyện khí, kết hợp với ăn Chay, hầu mau đạt đến kết quả, nhìn Thái Tử hiện giờ da thịt mịn màng hồng hào phát sáng làm tăng thêm vẻ uy nghi tuấn tú. Đạt đến cảnh giới này, Thái Tử như hiểu ra một điều, không có sự nổ lực nào mà vô ích, nhất là sự nổ lực vì Nhân Loại lại càng cao quí hơn nữa, làm cho sức mạnh tinh thần trở nên Đại Hùng Đại Lực, Đại Từ Bi, Đại ý chí đạt đến cảnh giới phi thường. Mỗi niệm của Thái Tử là mỗi niệm chuyển Thiên Hạ về Trời.

Mọi vạn vật sanh tạo ra đều có nguồn gốc nhân duyên nghịch, thuận của nó, cũng như đất - nước - gió - lửa, Thể Lực - Thể Hơi  -Thể Lỏng - Thể Đặc, nguồn gốc nhân duyên sanh ra nó. Theo nguyên lý vũ trụ hể cái gì có sanh, thời phải chuyển hóa, từ dạng này sang dạng khác và cuối cùng bị hủy diệt.

Nơi vũ trụ có một bản thể không sanh diệt đó là bản thể Linh giác vũ trụ hay còn gọi là bản thể Linh giác tối thượng Tổ Tiên, bất tăng, bất giảm. Không cấu nhiễm, trong sạch vô vi, thường còn mãi mãi, không sanh ra cũng không diệt đi, trước sau như một, như như thường còn, không có sự khởi đầu nên không có sự chấm dứt. Vô lượng thọ.

Chính bản thể Linh giác vũ trụ vô lượng thọ này, Tịnh thời sanh Lực, Động niệm thời sanh thức, đây là một quy luật không thay đổi, Linh giác vũ trụ an trụ Đại Định, thời sanh ra Thần Lực vũ trụ. Thần Lực sanh ra một thời gian liền chuyển đổi, trẻ, trung, già, tử. Tử là chuyển đổi qua dạng khác. Chẳng hạn, lực già chuyển ra khí, khí già chuyển ra nước, nước chuyển ra lớp bụi phù sa vũ trụ rồi trở thành Đất, làm tăng thêm sự sống cho thế giới Thực Vật cũng như thế giới Động Vật.

Người tu Thiền luyện khí, thời phải hiểu rõ chu kỳ kết tinh, chu kỳ giao hợp chuyển hóa của Trời, Đất. Nói về ngày, đêm. Ngày là Dương, Đêm là Âm, theo quy luật của Tạo Hóa. Dương non, dương già không kết tinh mà chỉ kết tinh ở giai đoạn trung Dương mà thôi, thời điểm kết tinh hoàn hảo nhất trong ngày là giờ Ngọ. Âm cũng thế, âm non, âm già không kết Dịch mà Kết Dịch vào giai đoạn trung âm, đỉnh cao của sự kết Dịch đó là vào giờ Tý. Còn Mẹo - Dậu là giờ chuyển giao âm Dương, vạn vật sanh sôi nẩy nở tiến hóa từ đây. ÂM - DƯƠNG  kết tụ Tinh - Dịch rồi giao nhau tiến hóa, bồi đắp sự sống sinh sôi sự sống, cả nghịch lẩn thuận, cả sinh lẩn tử. Tinh, Dịch vũ trụ của thể hơi, khí, thể lỏng, nước, thể đặc, đất. Phần lớn là do hơi ấm vũ trụ tác động mà thành.

Sự kết Tinh - Kết Dịch ba thể như sau.
1: Thể Đặc kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hóa chuyển hóa ở Mẹo - Dậu ở ngày đêm.
2: Thể Lỏng, kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hóa chuyển hóa ở Mẹo - Dậu ở tháng.
3: Thể Hơi, khí già: kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hóa chuyển hóa ở Mẹo - Dậu ở năm.

Cứ 3 năm tu luyện là một nất thang tiến hóa lên tu hành. Luyện đến 9 năm thời nhị xác thân bắt đầu hình thành, luyện tới 12 năm 1 giáp thì thành nhị xác thân. Nếu tu thiền luyện khí nửa Hoa giáp 30 năm, thời sẽ đạt đến ngũ khí triều dân, thêm 30 năm nữa đúng một Hoa giáp 60 năm, thời sẽ đạt đến tam Hoa tụ đỉnh, nhị xác thân theo ý tưởng biến hóa vô cùng. Nói thời nói thế, như Kinh Dương Vương tu thiền luyện khí hơn 70 năm vẫn chưa thành còn ở giới pháp thuật thần thông hạn hẹp, đi trên mặt nước như đi trên đất liền, phi thân như tên bắn, Thần Lực theo ý tuôn ra thành chưởng lực. Nhưng Thái Tử thì lại khác, vì Thái Tử hiểu rõ quy luật tu Thiền luyện khí, cũng giống như người bơi rành, người mới tập bơi sự tu Thiền luyện khí ở cấp thượng thừa. Thái Tử là Ông Tổ của tu Thiền, chỉ trong vòng hơn 3 năm đã đạt đến cảnh giới tam hoa tụ đỉnh ngũ khí triều dân, tiến lần đến cảnh giới Thần Thông Quảng Đại.
**************


CHƯƠNG 9

PHẦN 3

GIẢI TỎA CHƯỚNG NGẠI

Đạt đến cảnh giới này, Thái Tử mới hiểu rõ thêm, sự tồn tại vũ trụ có động có tịnh mới tiến hóa được, để hòa hợp nhị xác thân cùng xác thân là một, thời phải luyện tập thể chất. Quyền pháp, thể dục - thể thao, thời kinh mạch huyệt Đạo lưu thông, thân thể cường tráng, cơ bắp rén cứng, sức lực bền bỉ, đẩy lùi tất cả bệnh tật dù cho đó là những bệnh nan y khó chửa trị.

Thái tử nhớ lại 108 động tác với những tư thế rất khó tập, dùng để rèn luyện thể lực cơ bắp, khai thông huyệt Đạo, lưu thông khí huyết, tôi luyện ý chí, đối diện quân thù.

Kinh Dương Vương thường dạy Thái Tử, con muốn đạt đến đỉnh cao của bật Tôn sư thời con phải tu luyện Quyền pháp, thập bát môn võ nghệ, còn phải siêng năng luyện tâp 108 thế thức thần công, nhờ vào những thể thức khó tập này sẽ làm cho con cơ thể rén chắc dẽo dai và sức chịu đựng cao, nhanh nhẹn Động - Tịnh vững vàng. Muốn đạt đến đỉnh cao của Thần Quyền, thời con phải tu tập đến đỉnh cao của 108 thế thức Thần Công. Muốn tu tập đỉnh cao 108 thế thức Thần Thông, thời con phải biết tu Thiền luyện khí, có tu Thiền luyện khí, thời khi luyện Thần Quyền, Đạo thuật, Kiếm thuật, Quyền thuật, chưởng pháp, kinh công, mới đạt đến cảnh giới Thân - Pháp - Ý hợp nhất, xuất thần nhập hóa, thời con đối mặt với kẻ thù, không còn lo sợ gì nữa, con như những đỉnh núi cao mà kẻ thù nhìn thấy phải khiếp sợ. Ngay như cha đây hơn 70 năm tu luyện cũng không đạt đến cảnh giới ấy.

Nhưng Kinh Dương Vương nào có hiểu, nếu tâm ý chưa rốt ráo thanh tịnh, thời dù có tu luyện đến trăm năm, nghìn năm cũng ở mức hạn nào đó mà thôi, khó mà tiến xa hơn được nữa, cũng như con người thường tục sanh ra biết ngồi, rồi đến biết đi, biết chạy. Nhưng biết bay phải mọc ra đôi cánh, tu Thiền luyện khí cũng vậy, muốn đạt đến đỉnh cao phải hội ngộ Chân Tâm Chân Tánh.

Thái Tử nghỉ, muốn đưa xã hội đến công bằng, Dân Chủ, văn minh, không còn con đường nào khác hơn là toàn dân biết tu dưỡng Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Đức ((văn minh tinh thần)).

Muốn cho cơ thể ít bệnh tật khỏe mạnh, không còn con đường nào khác hơn là cần phải lựa chọn chế độ ăn uống, siêng năng lao động, siêng năng luyện tập thể chất, thể lực, Quyền pháp, thể dục, thể thao, tu Thiền luyện khí. Muốn cho Đất Nước Tổ Quốc mãi mãi Thái Bình thịnh vượng không còn con đường nào khác hơn là phải lấy dân làm gốc và phát huy cái gốc của dân, chính là phát huy truyền thống dân tộc, Văn Hóa Cội Nguồn. Mà Văn Hóa Cội Nguồn chính là Hiến pháp, Luật pháp, Đạo pháp. Đạo pháp Chính Nghĩa dựng nước, giữ nước, mở màn nhà nước Văn Lang, năm nghìn năm chủ quyền Độc Lập.

Lại thêm một năm nữa trôi qua, trừ các giờ luyện tập. Quyền pháp. Thân pháp cho máu huyết lưu thông, nội lực hùng hậu, còn các giờ khác, Thái Tử luôn luôn làm chủ phong bế giác quan, tu Thiền luyện khí. Thái Tử chuyên tâm thu nạp Chân Khí, những gì xung quanh, cũng không cần để ý đến, dù tai có nghe lên tận các tần trời, có nghe tận các tần Địa Ngục. Mắt có thể nhìn thấy những vật nhỏ nhất như vi khuẩn như thể không màu sắc như gió Điện lực vũ trụ, nhìn thấy Linh Hồn nhân loại chuyển kiếp đầu thai. Sự thấy nghe hay biết ấy đã không giải quyết được gì tương lai cho đất nước hoặc giải thoát sự khốn khổ cho nhân loại con người. Nếu chìm đắm trong cảnh ngũ thông sanh tâm chấp trước phân biệt, vui buồn theo phân biệt, Thiên Đàng, Trần Gian, Địa Ngục, thời rơi vào Ma chướng ngay.

Thái Tử chuyển tâm thu nạp dưỡng khí, thấy nghe hay biết khắp nhưng không khởi tưởng phân biệt chi cả, luôn luôn làm chủ Tánh, thấy nghe hay biết của mình.

Thấy nghe hay biết khắp cùng vũ trụ, khởi tâm nhận định phân biệt lúc này. Chỉ làm hại cho cuộc tiến xa hơn nữa, thấy nghe hay biết khởi tưởng nhận định phân biệt lúc này, đã không giải quyết được gì. Lại rơi vào cảnh tối tăm biến hóa vô thường vũ trụ, chân giả làm chân, thấy Rắn tưởng Rồng, thấy Ma tưởng Phật thời tai hại biết bao.

Thiên Đạo Cội Nguồn đâu không thấy mà chỉ thấy Ma Đạo, Quỉ Đạo, Thần Đạo mà thôi, vì các Đạo này chưa ra khỏi kiến chấp bảo thủ, còn nằm trong nghiệp quả luân hồi, đau khổ chồng chất như biển cả núi non, chỉ khi nào hội nhập Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác. Hiểu rõ Đấng tạo lập lên tất cả, lập lên vũ trụ cùng con người và những định luật bất di bất dịch của Đấng ấy. Truyền bá lại cho hậu thế, để cho hậu thế gặt hái, tiến tới làm chủ ý thức, làm chủ Linh Hồn, làm chủ vũ trụ.

Những lần luyện khí gần đây, Thái Tử nhận thấy trong cơ thể như không có gì ổn, hai dòng máu Nóng, Lạnh chống chỏi nhau mỗi ngày mỗi hiện rõ trong nội thể của mình. Hiện tượng này đã đánh thức Thái Tử thêm lần nữa, tu Thiền luyện khí chưa đủ để cho cơ thể tiến đến đỉnh cao mà còn phải làm cho Âm Dương hợp nhất, lưu chuyển thông suốt trong cơ thể con người.

Một xã hội tiến hóa cao, thời xã hội đó có nhiều cạnh tranh quyết liệt, những mâu thuẩn tiếp tục xảy ra trong xã hội, nếu không có cách giải quyết thời sẽ bùng nổ ra chiến tranh làm đảo lộn sự sống, cũng như thân thể. Thể xác Thái Tử đã đạt đến cảnh giới, Tam Hoa tụ đỉnh, Ngũ khí triều dân, thời tiết bất xâm, bách Độc khó hại. Thần Lực - Khí Lực - Tinh Lực dồi dào, đáng lý ra thời không có chuyện gì xảy ra nữa nhưng không phải thế, trong nội thể tìm ẩn nóng lạnh xung đột lẩn nhau.

Để giải quyết bài toán khó trong nội thể, làm bài học rút ra từ đây, sau này điều hành đất nước, tháo gỡ tìm ẩn xung đột cạnh tranh dung hòa một mối, tăng thêm sự hùng mạnh của đất nước. Thái Tử để hết tâm trí tập trung suy nghỉ quán nghiệm lại từ đầu đến cuối, vì sao có hiện tượng này xảy ra như vậy, nếu không tìm ra giải pháp hóa giải cứ theo đà này tu luyện, thời chính mình làm hại cho chính mình có khi còn nguy hiểm cho tánh mạng. Còn dừng lại không tu luyện nữa, thời Thiên Đạo Cội Nguồn sẽ không tìm ra, nhân loại mãi mãi ở trong cảnh tối tăm, chiến tranh sẽ bao trùm lấy họ, Tứ Nạn, Tam Tai sẽ diệt lấy họ.

Tứ Nạn: một là Đói Nghèo lạc hậu, hai là Binh Đao máu lửa, chiến tranh, ba là Ôn Tai Dịch họa, bốn là Động đất liên miên hết chổ này sang chổ khác.

Tam Tai: là Thủy - Hỏa - Phong, loài người khó tránh khỏi 7 tai họa này, nếu không có cách tránh nó. Thái Tử là Đấng cứu thế, không những Thái Tử sẽ tìm ra giải pháp cứu thế mà còn hóa giãi sự xung đột của các thế lực đang bành trướng trong cơ thể của Ngài. Thái Tử nghỉ, thể xác con người là bộ máy tuần hoàn Tiểu Thiên vũ trụ, có cả Âm lẩn Dương, có cả Thượng lẩn Hạ, có hàng cả mấy trăm huyệt Đạo, mỗi huyệt Đạo là mỗi cửa ải giao thương các kinh mạch, mỗi kinh mạch là sự sống của hàng vạn tế bào, sự sống của hàng vạn tế bào thông ra mỗi đầu Lông. Hơn nữa Chân khí vũ trụ mà Thái Tử thu nạp bấy lâu nay, mỗi lúc mỗi dâng trào cuồn cuộn trong nội thể Thái Tử, tự nó phân định Âm Dương không chịu dung hòa với nhau, xung đột với nhau mỗi ngày mỗi thêm dữ dội lúc tu Thiền luyện khí. Thái Tử hầu như khám ra những điều hửu ích nữa đó là tuần hoàn. Tuần hoàn chính là tiến hóa của sự sống, con người vì xã hội, xã hội vì con người, con người vì cái chung, cái chung bảo vệ cái riêng, bảo vệ tuần hoàn chính là luật tuần hoàn, còn bảo vệ sự sống tuần hoàn tiến hóa xã hội chính là Hiến pháp, Luật pháp Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Tạng vũ trụ.
**************


CHƯƠNG 9

PHẦN 4

PHĂNG LẦN GỠ RỐI.

Sự hình thành nóng lạnh trong nội thể mỗi ngày mỗi lớn để phăng lần từng mối, gỡ rối từng khúc, Thái Tử quán nghiệm lại bốn thể lớn của vũ trụ 1 Thể Lực, 2 Thể Hơi, 3 Thể Lỏng, 4 Thể Đặc. Sự phân tích. Thái Tử nghỉ Thể Lực vô cực Chân nguyên là Thể Lực chưa phân định Âm Dương. Thể Lực vũ trụ này, xuyên qua sắc, thép, kim cương, vàng, đá, sành, kiến kính, không để lại dấu vết, chổ nào cũng có khắp cùng vũ trụ, lực này bị khuấy Động liền tạo ra hai dòng từ trường Âm và Dương nóng - lạnh Động tịnh, khi nào từ trường Âm Dương va chạm vào nhau thời phát ra tiếng sấm và những tia lửa bắn ra gọi là sét.

Thể Lực là Thể Chủ của ba thể kia, thể chưa phân định Âm Dương, thời làm gì tìm ẩn nóng lạnh dẩn đến sự xung đột nóng lạnh trong nội thể không phải do Thần lực tạo ra.

Dưới Vô Cực Chân nguyên, là Thái Cực Chân nguyên, tức là Thái Thanh Chân Khí, khí vừa mới tượng hình, do Lực già chuyển hóa sanh ra Thái Thanh Chân Khí là giai đoạn đầu phân định lưỡng nghi, Âm chưa thành Âm, Dương chưa thành Dương, cũng như một mầm cây bắt đầu nảy mầm hai nhánh, sự nẩy mầm này chỉ là giai đoạn đầu khởi điểm Âm Dương, thời làm sao xung khắc nhau được, nếu xung khắc đó mới chỉ là hiện tượng mà thôi.

Còn sự xung khắc trong nội thể thì quá rõ ràng, có thể xảy ra xung đột đến mất mạng. Thái Tử nghỉ hiện tượng này là do Âm Dương chân khí, cùng thái Âm thái Dương chân khí xung đột tạo ra mà thôi. Thái âm Thái Dương Chân Khí là do Thái Thanh Chân Khí đã già chuyển hóa sanh ra. Sự chuyển hóa này đã trờ thành quy luật, không những ở trong Chân Khí mà ngay cả xã hội cũng vậy, thời kỳ quá độ của chế độ sẽ tự nó đổi mới chuyển sang chế độ khác.

Trong vũ trụ tuổi thọ của Thể Lực, gấp 20 lần của thể khí, tuổi thọ của thể khí gấp 20 lần của thể lỏng, tuổi thọ của thể lỏng gấp 20 lần của thể đặc, tuổi thọ của thể đặc gấp 20 lần tăng giảm sẽ bị hủy hoại, cứ một lần tăng giảm trải qua 16 triệu 800 nghìn năm. Đạo pháp cũng thế đều có tuổi thọ an trụ của nó, chẳng hạn như Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ, an trụ tuổi thọ là năm tiểu kiếp, 84 triệu năm, thời chuyển đến Liên Hoa Hải Tạng.

Giải quyết sự nóng lạnh xung đột trong nội thể, Thái Tử tiến đến giải pháp, dùng ý tưởng lưu dẩn chúng làm cho chúng lưu chuyền khắp mạch, dung hoàn Âm Dương tiến lên một tầm cao mới. Sự lưu dẩn chân khí Âm Dương khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch là một phương pháp vô cùng hửu hiệu. Sự xung đột nóng lạnh trong cơ thể biến mất, thay vào đó Thần Lực, Công Lực, Nội Lực tăng lên gấp 3 gấp 4 lần.

Thái Tử dẩn khí từ Đan Điền xuống Khí Hải, Quan nguyên, Trung Cực, Khúc Cốt, Hội âm chót xương cụt, hết phần bụng dưới. Rồi từ Chót xương Cụt, phần lưng chạy lên đỉnh đầu, yêu Di xương cùng Dương Quan, thắt lưng, rồi tới mệnh môn, Thần Đạo Chí Dương, Chân Trụ, Đào Đạo, Đại Thùy, Á Môn, Phong Phủ, Hậu Đình, Bách Hội. Bách Hội là Hội đỉnh đầu.

Thái Tử tiếp tục dẩn chân khí chạy về phía trước đỉnh đầu xuống mặt, xuống ngực, xuống bụng trên, bụng dưới trở về Đan Điền. Bách Hội. Tiền Đình. Tinh Hội. Thần Đình. Ấn Đường. Tinh Minh. Hòa Liêu. Nhân Trung. Thừa Tương. Thái Tử vận chân khí tới đây hết phần mặt rồi tiếp tục xuống cổ xuống ngực. Thừa Tương. Liêm Tuyền. Trung Quản. Thủy Phân rồi hội tụ tại Đan Điền.

Cứ thế Thái Tử vận hành càng lúc càng trôi chảy, thể xác con người là thể xác tiểu Thiên vũ trụ, nay Thái Tử vận hành Chân Khí chuyển vận chạy từ trước ra sau, từ sau ra trước, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, tuần hoàn không dứt, làm cho các huyệt Đạo thông suốt, làm cho kinh mạch thông theo, một bí pháp vô cùng quan trọng đối với cơ thể con người tiểu Thiên vũ trụ. Thái Tử khai thông cơ thể, làm cơ thể bừng lên sức sống mảnh liệt. Thái Tử dần dần chinh phục tiểu Thiên vũ trụ, làm chủ tiểu Thiên vũ trụ, tiến lần đến làm chủ Đại Thiên vũ trụ.

Nhờ chăm chú vận hành chân khí khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch, sự vận hành ấy dần dần lưu chảy thông suốt. Từ Đan Điền xuống xương cụt, theo đường xương sống chạy lên đỉnh đầu, rồi xuống tráng, xuống mắt, xuống mũi, xuống miệng, xuống cổ, xuống ngực, xuống bụng rồi trở về Đan Điền, sự tuần hoàn ấy Thái Tử vận chuyển chân khí lặp đi lặp lại.

Mới vận chuyển chân khí, Thái Tử cảm nhận như dòng khe nước nhỏ. Nhưng giờ đây khác hẳn, Thái Tử cảm nhận như một con sông lớn lưu chuyển chảy cuồn cuồn từ ÂM sang DƯƠNG từ DƯƠNG sang ÂM. Từ Hạ Thiên đến Thiên Tiên. Từ Bách Hội xuống Hội Âm, Chân khí tràng chảy đến dâu, không những khai thông huyệt Đạo kinh mạch mà còn rộng mở huyệt Đạo kinh mạch.Sự xung đột Âm Dương không còn nữa. Thay vào đó một thân thể nhẹ bổng, trào dân sức sống Thể Lực thượng thừa.

Hình Ngồi Thiền 1.





Thái Tử từ khi tu Thiền luyện khí, tích tụ nơi Đan Điền. Huyệt ÂM GIAO. Chân khí tích tụ mỗi ngày mỗi lớn mạnh, lan tỏa rộng lớn khai thông các huyệt Đạo xung quanh, các kinh mạch theo đó cũng rộng mở cả bụng dưới lẩn bụng trên gần mấy chục huyệt Đạo nhưng ở đây chỉ kể một số huyệt Đạo chủ yếu mà thôi. Xung quanh xa gần huyệt Đan Điền như huyệt Khí Hải. Thủy Phân. Quan Nguyên. Trung Quản lên tận Cự Khuyết xuống Khúc Cốt rồi lan tỏa rộng ra hai bên khai thông một số các huyệt Đạo khác. Phúc Kết. Thủy Đạo. Hoang Du. Thiên Khu. Đại Cự. Đại Hách. Kỳ Môn. Cự Huyết. Lương Môn. Bất Dung. Chương Môn. Nhật Nguyệt. Đới Mạch. Cự Liêu. Ngủ Khu. Xung Môn v.v..

Hình Ngồi Thiền 2.





Sự khai thông này cũng giống như các Biển Hồ Bể Khí tràng đầy Khí Lực thống suốt cùng nhau tạo lên sức lực khôn lường. Huyệt Đạo khai mở, kinh mạch thông suốt, sức lực sinh khí tràn đầy. Thái Tử mỗi lần tu Thiền luyện khí thời thấy có một luồn khí nóng từ Đan Điền tỏa ra xung quanh vùng bụng dưới rồi tỏa lên khắp châu thân và gần đây Thái Tử thấy hai luồn nóng lạnh chống chỏi nhau. Và Thái Tử đã nghỉ ra phương pháp vận hành lưu dẩn Chân khí khai thông toàn bộ các huyệt Đạo - Kinh mạch châu thân.

Thái Tử dẩn chân khí bắt đầu từ ĐAN ĐIỀN xuống KHÍ HẢI xuống QUAN NGUYÊN rồi đến TRUNG CỰC. KHÚC CỐT. HỘI ÂM. Thông qua xương cụt ra sau lưng, khai thống TRƯỜNG CƯỜNG chạy lên theo đường xương sống khai thông YÊU DI. Thuộc phạm vi vùng mông, xương cùng. Chân Khí lan tỏa ra hai bên vùng mông khai thông các huyệt Đạo như Hội Dương, ở xương cụt, Hạ Liêu. Trung Liêu. Thứ Liêu. Bàng Quang Du. Tiểu Tràng Du. Bàn Hoang. Quan Nguyên Du.

Thái Tử lại tiếp tục dẩn Chân Khí chạy lên vùng eo lưng, khai thông huyệt DƯƠNG QUAN của eo lưng, thông lên MỆNH MÔN xuống sống bụng, Chân Khí lan tỏa ra hai bên khai thông các huyệt chạy dọc theo hai bên xương sống như huyệt Thận Du. Tam Tiêu Du. Đại Tràng Du. Thương Liêu. Chí Thất. Vị Du. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí khai thông lên huyệt. CHÍ DƯƠNG. Đốt xương sống ngực thứ 7. Dưới đốt xương sống ngực thứ 7 thuộc Âm. Huyệt Chí Dương nằm ngay tại vùng giáp ranh đó.                               





Chân Khí chạy lên huyệt CHÍ DƯƠNG lan tỏa ra hai bên khai thông các huyệt Đạo như huyệt Đởm Du. Tỳ Du. Can Du. Cách Du. Cách Quan. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí chạy lên vùng lưng khai thông huyệt. THÂN TRỤ cùng các huyệt Đạo dọc theo hai bên vùng lưng xương sống ngực như các huyệt Đạo. Phế Du. Quyết Âm Du. Tâm Du. Thần Đường. Cao Hoang. Phách Hộ. Phụ Phân.

Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí thông lên ĐÀO ĐẠO - ĐẠI CHÙY. Chân Khí lan tỏa hai bên xương sống khai thông các huyệt Đạo vùng lưng cũng như vùng lưng bả vai như huyệt. Đại Chữ. Kiên Trung Du. Đại Trứ. Khúc Viên, rồi thông qua các huyệt Đạo lưng hai bên xương vai như huyệt, Phụ Phân, Thiên Liêu, Kiên ngoại Du, Kiên Tỉnh, Bình Phong, Kiên Liêu, Kiên Ngưng, Thiên Tông, Phong Môn. Tức thì khai thông ra toàn bộ vùng lưng, vùng eo, vùng mông. Đại Chùy. Đào Đạo. Thân Trụ. Thần Đao. Chí Dương. Trung Khu. Tích Trung. Đại Chữ. Kiên Tỉnh. Kiên Ngưng. Phong Môn. Bình Phong. Thiên Tông. Kiên Liêu. Kiên ngoại Du. Phong Môn. Thiên Liêu. Phụ Phân. Quyết âm Du. Tâm Du. Đốc Du. Thiên Tông. Kiên Trinh. Đại Trứ. Phế Du. Cách Du. Cam Du. Đảm Du. Tỳ Du. Tam tiêu Du. Vị Du. Chí Thất. Mệnh Môn. Thận Du. Đại Tràng Du. Quan nguyên Du. Tiểu trường Du. Thượng Liêu. Thứ Liêu. Dương Quan. Trung Liêu. Hạ Liêu. Bàng quang Du. Trung lữ Du. Bạch hoàng Du. Thừ Phù. Yêu Di, Trường Cường.





Chú ý ở đây chỉ nói đại khái những huyệt Đạo chủ yếu mà Thái Tử đã khai thông toàn bộ lưng, eo, mông. Huyệt Đạo khai mở kinh mạch theo đó cũng thông suốt. Thái Tử lại tiếp tục dẩn Chân Khí thông lên 7 đốt xương sống cổ, khai thông huyệt Đạo Á môn. PHONG PHỦ. Chân khí lan tỏa ra hai bên sống cổ khai thông các huyệt như Thiên Dũ. Phong Trì. Thiên Trụ. An Miên. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí thông lên đầu, khai thông HẬU ĐÌNH rồi thông lên BÁCH HỘI đỉnh đầu, Thái Tử dừng nghỉ để cho Chân Khí hội tụ Đỉnh Đầu càng lúc càng mạnh, làm cho Huyệt BÁCH HỘI khai thông rộng mở. Bách Hội khai thông rộng mở, thời các kinh mạch chủ lực liền thông suốt, nhiệm mầu thay. Đầu óc Thái Tử trở nên minh mẩn lạ thường. Thái Tử lại tiếp tục dẩn Chân khí từ Bách Hội chạy về phía trước Đầu, khai thông TIỀN ĐÌNH - TINH HỘI rồi đến THẦN ĐÌNH. Chân khí lan tỏa rộng ra khai thông một số huyệt Đạo như Thông Thiên. Khúc Sai. Chân khí tuôn xuống trán khai thông. Tinh Minh Dương Bạch xuống ẤN ĐƯỜNG. Chân khí lan tỏa khai thông. Toản Túc. Ty trúc không, ngư yêu. Thái Dương. Thái Tử lại dẩn Chân khí xuống mắt xuống mũi. Khai thông huyệt Nhân trung, chân khí lan tỏa rộng ra khai thông huyệt, Thừa Khớp Nghinh Hương. Cự Liêu. Hòa Liêu. Tứ Bạch. Khách chủ Nhân. Hạ quan. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí chạy xuống miệng xuống càm khai thông huyệt Thừa TƯƠNG. Chân khí lan tỏa rộng ra khai thông huyệt Địa Thương. Quyền Liêu. Đại Nghinh. Thái Tử dẩn chân khí tới đây hầu hết khai thông các huyệt Đạo chủ yếu ở phần mặt. Bách Hội. Tiền Đình. Tinh Hội. Thần Đình. Thông Thiên. Khúc Sai. Tinh Minh. Dương Bạch. ẤN Đường. Toản Trúc. Ti Trúc Không. Ngư Yêu. Thái Dương. Nhân Trung. Đồng Tử Liêu. Tứ Bạch. Địa Thương. Nghinh Hương. Cự Liêu. Hòa Liêu. Quyền Liêu. Thừa Tương. Thái Tử lại dẩn chân khí xuống cổ khai thông huyệt Liêm truyền. Chân khí lan tỏa khai thông huyệt Nhân Nghinh. Thiên Đỉnh. Thủy Đột. Khuyết Bồn.





Thái Tử lại dẩn khí xuống khai thông THIÊN ĐỘT thông xuống phần ngực chân khí tỏa ra một vùng rộng lớn. Khai Thông. Khí Xá. Du Phủ. Trung Phủ v.v… Khuyết Bồn. Kiên Tỉnh. Vực Trung. Thái Tử lại tiếp tục dẩn Chân khí chạy xuống khai thông huyệt ĐẢN TRUNG rồi thông xuống khai thông Cưu Vĩ. Chân khí liền tỏa ra một vùng rộng lớn khắp vùng ngực, làm thông suốt một số huyệt Đạo như huyệt Thần Phong. Nhũ Trung. Nhũ Căn. Ưng Song. Thiên Khê v.v…

Khai thông xong các huyệt Đạo ở phần ngực, Thái Tử lại dẩn chân khí khai thông các huyệt Đạo ở phần bụng trên, từ huyệt Đạo Cưu Vĩ thông xuống CỰ KHUYẾT. TRUNG QUẢN. THỦY PHÂN. Chân khí liền lan tỏa khắp vùng bụng trên, khai thông một số huyệt Đạo như huyệt Bất Dung. Kỳ Môn. Nhật Nguyệt. Lương Môn. Đới Bạch. Rồi thông xuống ÂM GIAO tức là huyệt ĐAN ĐIỀN, trở về bể nguồn nơi xuất phát. Chân khí cuồn cuộn lan tỏa xuống KHÍ HẢI. Hoang Du. Thiên Khu. Đại Cự Y. Quan Nguyên. TRUNG CỰC thông xuống Khúc Cốt lan tỏa khai thống hết thảy các huyệt Đạo ở bụng dưới như huyệt Đại Hách. Duy Đạo. Ngũ Xu. Xung Môn. Cự Liêu. Đại Cự. Khí Xung. Thủy Đao. Ngủ Khu v.v…

Thái Tử vận hành Chân khí tuần hoàn cứ thế mà vận chuyển khai thông huyệt Đạo kinh mạch càng lúc càng thông suốt, càng lúc nhuần nhuyễn dễ dàng. Vận hành Chân khí, khí thông huyệt Đạo, kinh mạch là một bí pháp, ẩn tàng huyền vi khó mà nói cho hết. Tuy Thái Tử đã đi hơn nữa đoạn đường tu Thiền luyện khí, vận hành khai thông huyệt Đạo, kinh mạch. Nhưng đã đưa Thái Tử đến đỉnh cao, khó có người theo kịp.

Để bước sang giai đoạn khó hơn, đòi hỏi người tu Thiền vận hành Chân khí phải tập trung ý chí tinh thần cao độ, tập trung, thấy nghe hay biết, chú tâm vào tu Thiền vận khí mà thôi.

Tổ Tiên tạo lập lên vũ trụ, thời chúng ta phải tạo lập lên con người, con cái của Tổ Tiên thay thế Tổ Tiên cai quản vũ trụ. Tổ Tiên tạo lập lên thể xác con người là thể xác hoàn hảo, anh linh tối cao, thể xác Tiểu Thiên vũ trụ, cọng thể xác 8 muôn 4 nghìn loài. Cũng không hơn được thể xác Tiểu Thiên vũ trụ con người. Linh Hồn đầu thai để được làm người là điều rất khó, đầu thai được làm người thời coi như Linh Hồn đã làm chủ bộ máy thể xác huyền vi vũ trụ. Linh Hồn nhờ làm chủ bộ máy thể xác.





Tiểu Thiên vũ trụ này, tiến hóa Linh Hồn phát Huệ mau chóng, đạt đến đỉnh của sự giác ngộ, làm chủ vũ trụ, lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Bộ máy thể xác con người, bộ máy Tâm Linh con người là cả kho tàng bí mật vũ trụ. Không có bộ máy nào huyền diệu hơn bộ máy Tâm Linh, bộ máy thể xác con người. Không có con thuyền nào bay vào vũ trụ, hơn được con thuyền Tâm Linh. Con thuyền tiểu Thiên Vũ Trụ, thể xác con người. Thái Tử phát huy vận dụng lều lái con thuyền Tâm Linh, con thuyền tiểu Thiên vũ trụ bay đến tận Cội Nguồn vũ trụ, gặt hái những thành quả mà không thể ai cũng gặt hái được. Không có sức mạnh nao hơn được sức mạnh con người, dù cho đó là sức mạnh của Rồng, Voi, Sư Tử, Cọp, Báo v.v… Nhưng ít ai hiểu được điều này, nếu ai hiểu được bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ, điều khiển và phát huy sức mạnh của nó, thời Di sơn đảo hải chỉ là việc nhỏ mà thôi. Chúng ta sẽ lần lượt thấy rõ Thái Tử phát huy sức mạnh tìm ẩn mật tạng bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ thể xác con người.

Có thể nói Thái Tử đang phát huy tìm năng sức mạnh con người, sức mạnh tâm Linh con người, tiến sau về bí mật vũ trụ, mở đường cứu thế, làm khiếp đảm loài Ma - Quỉ - Yêu - Tinh, đem lại hạnh phúc cho nhân loại con người, nhân loại anh em.





Sở dĩ con người yếu hơn loài Rồng, Voi Sư Tử, Hổ, Báo là vì con người không hiểu tiềm ẩn sức mạnh con người, cũng như sức mạnh tâm Linh, nên không tu Thiền luyện khí, tỉnh tâm thu nạp năng lượng vũ trụ. Vận hành năng lượng. Khai thông huyệt đạo kinh mạch. Vì thế bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ thể xác con người trở nên yếu ớt, bệnh tật hoành hành thời tiết xâm hại. Cũng như một xã hội mà thiếu đi văn hóa Cội Nguồn lại thêm các huyết mạch giao thương, trục lộ chủ chốt chật hẹp tắc nghẽn, thời xã hội đó không nói chúng ta cũng hiểu, không những lạc hậu đói nghèo lắm điều khốn khổ. Văn Hóa Cội Nguồn chính là Nguồn sinh khí nuôi dưỡng Tinh Thần, phát huy nội lực tiềm ẩn Tâm Linh, làm tinh thần Dân Tộc lớn mạnh, không có sức mạnh nào hơn được. Thái Tử đang nổ lực tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên Đạo vũ trụ, Chủ Nghĩa Đại Đồng nuôi dưỡng tinh Thần phát huy đến chỗ chí linh, chí Thánh.





Nói đến con người thời ai ai cũng biết có cả phần Hồn, lẩn phần xác. Thái Tử là nhà khoa học vũ trụ. Tu Thiền luyện khí, vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo, kinh mạch là ba phương án tối cao, đưa sức mạnh con người lên ngan tầm sức mạnh vũ trụ. Tiểu Thiên vũ trụ hòa nhập với Đại Thiên vũ trụ. Thái Tử là nhà khoa học Đa năng xã hội, nhà lảnh tụ Tinh Thần vĩ đại dân tộc, không những tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, vận hành Văn Hóa Cội Nguồn khai thông tinh thần làm cho các Bộ Tộc, Bộ Lạc, các tần lớp xã hội, các giáo phái, các màu da. Chủng Tộc hội nhập vào Cội Nguồn, triệu người như một, tiến tới cảnh dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, kéo dài Độc Lập, minh chứng lịch sử thời Đại Vua Hùng kéo dài hơn hai nghìn bảy trăm lẽ một năm.

Sự phát triển văn minh xã hội không chỉ là sự văn minh, máy móc, vật chất mà còn phải văn minh về thể lực đi đôi với văn minh Tinh Thần, làm chủ xã hội đi đôi với làm chủ bản thân, làm chủ ý thức, làm chủ Tâm Linh của mình. Hướng về tương lai tươi sáng, sống trong bầu không khí trong lành Đại Đồng, Bình Đẳng, Công Bằng văn minh.






Nếu chúng ta không biết khai thông nhân loại, khai thông mọi tổ chức chính trị, mọi thành phần giai cấp xã hội, mọi tôn giáo, Đảng phái. Bằng con đường Chính Nghĩa Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đồng Bình Đẳng, thời phải nói chúng ta đang sống trong thế giới đầy bệnh hoạn với bao nhiêu là sự bế tắc, dẫn đến bao nhiêu là xung đột, dẫn đến xã hội Địa Ngục, thế giới Địa Ngục, con người làm hại con người, đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời, thời hậu quả không biết đâu mà lường. Thái Tử là nhà Đại khoa học vũ trụ, Đại khoa học xã hội Tinh Thần lẫn vật chất. Nói đến tu Thiền luyện khí là nói đến chúng ta tiến tới làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ vận mệnh xã hội. Hàng phục thói hư tật xấu, trở thành một chân Tâm trong sáng. Đại Đồng chủng tánh đạt đến cảnh giới bất sanh bất diệt. Làm chủ vận mệnh làm chủ vũ trụ. Vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch, làm cho cơ thể tràng đầy sinh lực. Đẩy lùi mọi bệnh tật.





Vận hành Văn Hóa Cội Nguồn, khai thống trí huệ con người, thấy rõ tương lai tốt đẹp, không còn lẩn quẩn trong phạm vi nhỏ hẹp, giống như con Ếch ra khỏi đáy giếng, gà con ra khỏi lớp vỏ trứng, với cái nhìn khác xưa cái nhìn hiểu thế nào là về sự ngu dốt của mình. Người vận hành Chân khí, cũng giống như ao hồ sông rạch xưa nay bị lu lấp, tắc nghẽn, nay bổng cơn mưa kéo đến làm cho ao, hồ, sông, rạch không những đầy nước, lại khai thông dòng chảy, khai thông sức mạnh liên kết cùng nhau dẩn đến bất tận. Nói về con người đã được khai thông huyệt Đạo kinh mạch, thời sức mạnh toàn thân bất tận. Thái Tử thấy rõ điều đó.





Để tiến đến giai đoạn khó khăn hơn, đòi hỏi người tu Thiền luyện khí phải tập trung cao độ, cùng một lúc vận hành khai thông nhiều huyệt Đạo. Đây là một việc làm khó, đối với người căn cơ kém, còn đối với Thái Tử dẩn Chân khí từ Đan Điền xuống khúc Cốt, Hội âm, Trường cường, rồi lan tỏa rộng ra Bế Quan, Xung Môn, Âm Liêm. Thừa phụ xuống hai chân khai các huyệt Đạo bốn mặt, mặt sau, mặt trước, mé ngoài, mé trong. Từ Háng - Mông xuống các đầu ngón chân rồi vận khí chạy trở lên Xung môn, Bế quan.

Để vận hành Chân khí khai thông các huyệt Đạo có hiệu quả, Thái Tử nhớ rõ các huyệt Đạo vị trí huyệt Đạo nằm trên cơ thể một cách rõ ràng. Thái Tử vận hành Chân khí thông lên hai bên hông khai thông huyệt Cư Liêu rồi đến Ngủ Khu, Đới mạch, Chương môn.

Thái Tử vận hành Chân khí thông lên nách, khai thông huyệt cực tuyền, rồi thông lên bả vai khai thông huyệt Kiên ngung, Kiên tỉnh hai bên trên bả vai, để tiếp tục cuộc hành trình vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo kinh mạch Thái Tử tiếp tục dẩn Chân khí chạy xuống hai cánh tay khai thông các huyệt Đạo ở hai mặt cánh tay mé ngoài, mé trong của hai cánh tay xuống tận các đầu ngón tay rồi dẩn Chân khí trở lại, chạy lên vai khai thông hai huyệt Thiên Đỉnh ở bả vai gần giáp cổ. Để tiếp tục cuộc hành trình vận hành Chân khí, Thái Tử dẩn Chân khí thông lên cổ khai thông hai huyệt Thiên Song. Chân khí cuồn cuộn thông lên đầu, khai thông các huyệt Đạo dọc theo hai bên tai lên Bách Hội.

Chân khí từ hai huyệt Thiên Song ở cổ cuồn cuộn thông lên huyệt Thiên Dung, thông lên Ế Phong, Hoàn Cốt giáp tai, rồi thông lên Chính Cung. Nhĩ Môn. Khiếu Âm. Khúc Tấn. Giác Tôn. Thừa Linh rồi thông lên Bách Hội. Hai dòng sông Chân khí hiệp lại nhau làm cho Bách Hội khai mở một cách kỳ lạ làm thông suốt các kinh mạch nhỏ lớn khắp toàn châu thân. Thái Tử thấy cơ thể nhẹ như bong bóng Thần Lực bất tận, khí lực như Đại Dương. Lúc này Thái Tử không cần tập trung ý tưởng dẩn Chân khí nữa mà ý để đâu thời Chân khí chạy tới đó.

Chân khí theo ý Thái Tử chạy xuống trán, xuống mắt, xuống mũi, xuống miệng, xuống cổ, xuống ngực, xuống bụng rồi trở về Đan Điền và cứ thế theo luật tuần hoàn vận hành Chân khí lưu chuyển thuần thục. Ba con sông lớn thi nhau mà chảy đem Nguồn Chân khí vũ trụ bồi đắp kinh mạch, huyệt Đạo, Tế Bào nguồn Chân khí năng lượng sống vũ trụ, từ trước ra sau, từ sau ra trước, từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu, sự tuần hoàn này Chân khí tuôn chảy đến đâu, thời các lỗ chân lông đều khai mở đến đó. Có thể nói chẳng khác gì bốn biển, năm châu, giờ đây đã được Dung Hòa, Đông Tây Nam Bắc, Trung Ương, Thượng, Hạ thành một mối, Thái Bình An Lạc Đại Đồng Bình Đẳng. Phàm, Thánh hợp nhất các thứ tệ nạn xã hội liền bị đẩy lùi hết chỗ dung thân, cũng như khai thông huyệt Đạo kinh mạch bệnh tật liền bị tiêu trừ.

Sức mạnh của một Quốc gia không phải chỉ ở một người hay một tổ chức chính trị, Đảng phái tôn giáo, không có dân thời lấy đâu có Chính Quyền, lấy dân làm gốc là đều tất yếu. Nhưng phát huy được cái gốc của dân, đó mới là điều thăng chốt, tiến tới xã hội văn minh, xã hội Đại Đồng Bình Đẳng mà chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn mới là chỗ tựa vững chắc của toàn dân. Có thể nói mỗi việc làm mỗi suy nghỉ của Thái Tử, để lại cho chúng ta những Di sản quí hiếm và không cho phép chúng ta đánh mất Di sản quí hiếm mà Tiền Nhân để lại cho chúng ta thứ tài sản vô giá này.

PHẦN THƯA HỎI :

Hỏi: Thế nào là hết lòng vì dân vì nước?

Đáp: Người hết lòng vì dân vì nước là người thương yêu Đồng Bào như thương yêu máu thịt của mình, suốt cuộc đời chỉ lo cho dân cho nước mà không đòi hỏi cầu lấy Danh, Lợi, địa vị nào cả.  Không bao giờ dìu dắc Đồng Bào vào cảnh anh em tương tàn, nồi da nấu thịt. Đi đầu trong mọi lỉnh vực nhân cách Đạo Đức, Trung Hiếu mãi mãi tôn thờ truyền thống dân tộc Văn Hóa Cội Nguồn. Những kẻ giả nhân giả nghĩa, giả Đạo giả Đức làm hại dân tộc, làm hại non sông Tổ Quốc, chỉ lừa dối những kẻ thiếu hiểu biết, lừa dối Thần Thánh sao được. Và cán cân Công Lý vũ trụ sẽ chuyển xây vận mệnh kẻ ấy vào Thiên La Địa La trùng trùng tai họa. Danh, tánh của những kẻ ấy sẽ được công luận lên án, đời đời bị Thiên Hạ nguyền rủa.

Hỏi: Thế nào là đặc niềm tin đúng chổ.

Đáp: Tin Văn Hóa Cội Nguồn, truyền thống dân tộc, Tinh Hoa dân tộc là nguồn nước Thánh Quốc Bảo Chí Tôn, Chí Thánh của dân tộc mà Ông Cha ta đã dày công vun đắp, truyền lại cho chúng ta.

Hỏi: Thế nào là lợi dụng Tôn giáo Đạo giáo phục vụ cho mưu đồ xâm lược?

Đáp: Các thế lực ngoại xâm họ thường lợi dụng học thuyết chân chính, của các Tôn giáo Đạo giáo những giáo điều của Tôn giáo Đạo giáo có lợi về mặt chính trị, họ liền áp dụng đầu độc dân tộc ta, làm cho dân tộc ta quên đi Nguồn Cội, sa ngã bị mê hoặc, làm mất đi ý chí tự cường, ý chí trung Hiếu, lu mờ truyền thống Con Rồng Cháu Tiên. Cụ thể dân tộc ta vô cùng khốn khổ phải chịu cảnh nô lệ hàng nghìn năm, sống trong chảo dầu biển lửa, sống trong kiềm kẹp với hàng trăm lớp trói chính sách của quân xâm lược, dân ta phải chịu cảnh trâu cày ngựa cỡi, đói nghèo lạc hậu khốn khổ vô cùng. Các học thuyết Tôn giáo Đạo giáo một khi các thế lực ngoại xâm lợi dụng biến chúng thành con dao nhiều lưỡi, uy hiếp tinh thần dân tộc. Vì hiểu tính cách lợi hại con Dao nhiều lưỡi này mà quân xâm lược luôn luôn mang theo nó, để uy hiếp đè bẹp tinh thần dân tộc ta, nên chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Cảnh thực hư của các giáo điều mà chúng luôn luôn dùng những giáo điều ấy mở đường cho xâm lược. Một dân tộc Rồng Tiên bị chúng trói vào giáo điều pháp luật, thời con Rồng biến thành con giun ngay. Văn Hóa Cội Nguồn chính là diệu dược Linh Đơn một khi uống vào liền thấy rõ chân tướng của loài Hồ Ly, Cáo, Sói.

Hỏi: Giặc nội tâm. Giặc ngoại xâm. Giặc nào nguy hiểm hơn?

Đáp: Giặc nội tâm. Giặc ngoại xâm. Giặc nào cũng nguy hiểm nhưng giặc nội tâm càng nguy hiểm hơn, muốn cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Thời phải loại bỏ thói hư tật xấu ra khỏi Linh Hồn của mỗi chúng ta, giặc thói hư tật xấu là thứ giặc vô cùng nguy hiểm, đồng bọn của chúng là giặc dốt, giặc ngu si, giặc mê muội. Chúng hùa nhau tham lam, vơ vét của dân, của nhà nước, trộm cướp là thứ giặc con, đặc ra chính sách bóc lột làm cho dân khốn đốn, giặc Cha thứ giặc luôn luôn bốc mùi tàn bạo. Một xã hội ấm no Thái Bình Hạnh Phúc là một xã hội đầy lòng Chân Chính, Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa cao. Muốn hiểu rõ sự nguy hại của thói hư tật xấu giặc nội tâm, thời phải dùng đến gươm Thiên trí Huệ trong Văn Hóa Cội Nguồn, báu vật của Trời, Đất có đủ ba ánh sáng để tiêu diệt chúng.
1: Đó là ánh sáng Công Lý Chính Nghĩa Đạo Đức truyền thống dân tộc.
2: Là ánh sáng Chân Lý Đạo Pháp Thiên Đạo Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng vũ trụ.
3: Là ánh sáng Luật pháp, công bằng xã hội.
Ba nguồn ánh sáng này một khi đã chiếu lên trả lại cho con người Tâm Hồn trong sáng, giặc nội Tâm sẽ lùi sâu vào tâm thức Linh Hồn dần dần bị tiêu diệt, thay vào đó là một Tâm Hồn vị tha và đầy lòng quả cảm. Đẹp như Tiên và mạnh như Rồng.
**************


CHƯƠNG 9

PHẦN 5

GIAI ĐOẠN 3
TU THIỀN LUYỆN KHÍ

Thái Tử giờ đây, nhất cử nhất động đều phát tuôn thần lực, ai nhìn thấy cũng khiếp vía. Các lỗ chân lông đều khai mở, Chân khí thu nạp vào Đan Điền là thông suốt đến các lỗ chân lông ngay, người tu luyện đến đây đã là kinh khiếp lắm rồi nhưng đối với Thái Tử thời chưa đạt, phải tiếng lên một nất cao hơn nữa.

Thái Tử tiến đến phương pháp hít thở theo lỗ chân lông, một phương pháp tối cao của người tu Thiền luyện khí. Lại một lần nữa Thái Tử cho ta thấy, tiến đến phương pháp hít thở theo lỗ chân lông là để phát huy sức mạnh toàn năng cơ thể con người Tiểu Thiên vũ trụ. Đây là một phương pháp hơi khó nhưng đối với Thái Tử thời không thấy khó tí nào cả, còn đường đi Thái Tử cho ta thấy, phát huy sức mạnh toàn thân, Tiểu Thiên vũ trụ, thời phải có phương pháp đối với cơ thể, binh pháp đối với xã hội. Phát huy sức mạnh toàn năng Tiểu Thiên vũ trụ, thời phải tu Thiền luyện khí, tỉnh tâm thu nạp năng lượng vũ trụ, vận hành Chân khí, khai thông huyệt Đạo kinh mạch, khai thông các lỗ chân lông, 8 muôn 4 nghìn lỗ chân lông một khi đã hít thở thu nạp năng lượng vũ trụ, thời bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ đã hội nhập vào bộ máy Đại Thiên vũ trụ, thu hút sức mạnh vũ trụ chuyển thành sức mạnh của mình.

Phát huy sức mạnh của một Quốc gia không khác gì mấy, 80 triệu dân hay 100 triệu dân, ví như mỗi người dân là mỗi đầu Lông của Tổ Quốc, các thành phần tổ chức Đảng phái, Tôn giáo, Đạo giáo các dân tộc anh em, ví như các huyệt Đạo của Tổ Quốc và sự giao thương với nhau, ví như là các kinh mạch.

Văn Hóa Cội Nguồn chính là năng lượng sống, cả ba mặt, khoa học, Tinh Thần, vật chất, vận hành Văn Hóa Cội Nguồn, lưu chuyển khai thông, thời kinh mạch giao thương liền được thông suốt mở rộng, đời sống xã hội tiến tới đỉnh cao nhanh chóng. Một đất nước như thế, không nói chúng ta cũng hiểu, đất nước ấy không những vững mạnh về vật chất mà mạnh cả Tinh Thần và cả sức mạnh toàn xã hội Tổ Quốc. Đất nước ấy dù có nhỏ, dù ít dân nhưng khó có đất nước nào đánh bại, dù cho đó là cường Quốc dân số hơn gấp mười lần. Đất nước ấy tuy dù ít dân nhưng dân tộc ấy là dân tộc Rồng Tiên thật sự.

Đức ÂU CƠ sinh ra nhân loại thể xác con người, thời loài Rồng hủy bỏ thân xác loài Rồng, Linh Hồn Loài Rồng đầu thai vào con người làm chủ bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ trước nhất, còn các loài khác lần lượt đầu thai làm chủ thể xác con người Tiểu Thiên vũ trụ kế theo sau. Một dân tộc mà sức mạnh như Rồng, đẹp như Tiên, thử hỏi thế lực nào chống nổi.

Sức mạnh của một Quốc gia mà chỉ mạnh ở Vua Quan hay của một Đảng phái, thời sức mạnh Quốc gia ấy chỉ là sức mạnh của con người bình thường, không phải sức mạnh của con người đã khai thông huyệt Đạo kinh mạch. Vì vậy sức mạnh của một Quốc gia không chỉ ở Vua Quan hay một Đảng phái thống trị mà là sức mạnh toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị và Văn Hóa Cội Nguồn chính là rường cột tạo lên sức mạnh đó.

Sức mạnh vô tận của con người là dùng Chân khí năng lượng sống vũ trụ khai thông huyệt Đạo kinh mạch, tạo lên sức mạnh Đại Đồng Tổng Thể từ vô hình cho đến hửu hình, từ Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng cho đến Thể Đặc, sức mạnh tìm ẩn của con người đã được phát huy.

Dân giàu nước mạnh, nước mạnh thời trổ Hoa Độc Lập, Hoa Độc Lập bền vững là nhờ đã kế thừa được cái quả truyền thống mỗi ngày mỗi to lên, quả truyền thống mỗi ngày mỗi to lên là nhờ Tinh Hoa Văn Hóa Cội Nguồn làm cho nó phát triển càng lớn mạnh. Lại một lần nữa Thái Tử cho ta thấy bài học Căn Cội của sự thống nhất, bài học phát huy sức mạnh toàn dân, phát huy nội lực tìm ẩn xã hội. Bài học phát huy nội lực toàn dân, đưa con người đưa xã hội tiến đến cảnh giới tối cao, cảnh giới Cực Lạc.

Trở lại vấn đề chính. Thái Tử ngoài Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu tu Thiền luyện khí, còn các giờ khác Thái Tử tu tập hít thở theo lỗ chân lông, đầu tiên thấy hơi khó nhưng sau đó trở thành thói quen, Chân khí theo lỗ chân lông ra vào thông suốt. Thái Tử chỉ cần hít một luồng Chân khí vận dụng toàn thân, tức thời thân hình bốc cao lên khỏi mặt đất ngay. Thái Tử đã biết mình đạt đến đỉnh cao của vũ thuật, quyền pháp, chưởng pháp đỉnh cao của Thiên Tiên, Địa Tiên.

Nhưng con đường tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn còn rất xa, vì còn phải vượt qua cảnh giới tối cao của vô minh. Đây không phải việc làm mà ai ai cũng làm nổi, phải Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi, Đại trí huệ mới vượt qua nổi. Trong cảnh giới tối cao của vô minh, những cảnh giới xuất hiện càng lúc càng kỳ bí, những cảnh tượng khủng khiếp, những cảnh tượng êm đềm mãi hiện ra bất tận, nếu không làm chủ cái thấy nghe hay biết của mình, khởi tâm phân biệt chạy theo sự thấy nghe hay biết, thời tức khắc rơi vào Ma Đạo, Quỉ Đạo ngay, mắc vào bẩy lưới của Ma Vương và Đại Quỉ đã ẩn sâu tận đáy Tâm Hồn của con người, tất cả đều đã hiện ra. Cứ một đoạn đường tiến sâu vào Mật Tạng vũ trụ là mỗi lần Thái Tử đổi phương pháp tu luyện.

Nói về xão nữ Thị Tỳ, vừa đem đồ ăn thức uống rời khỏi cấm cung, thời nghe tiếng nói vọng đến từ rất xa. Cúc Phương cứ bảy ngày ngươi mới đem đồ ăn thức uống đến vào buổi trưa đúng Ngọ, vì ta sắp sửa nhập Thiền vào cảnh giới Đại Định, không được cho ai tới gần khu rừng cấm nhất là nơi ta đang nhập Định. Cúc Phương khiếp vía tưởng là mình đang nằm mơ, cứ rờ tai dụi mắt chừng nhìn giõ đồ ăn cùng xe ngựa mới biết là mình không có nằm mơ. Cúc Phương nhìn quanh nhìn quất không thấy Thái Tử đâu cả, đâm ra sợ hãi, hỏi có phải Thái Tử dạy bảo tỳ nữ đó không? Cúc Phương lại nghe tiếng nói của Thái Tử như con Muỗi vo ve. Ngươi không thể thấy ta được đâu vì ta đang ngồi trong thiền phòng khu rừng cấm. Thôi ngươi trở về đi, 7 ngày sau ngươi đem đồ ăn thức uống đến theo lời dặn của ta khi nảy. Cúc Phương nghe xong càng khiếp vía, vì từ đây đến nơi Thái Tử rất xa đến mấy dặm đường, Cúc Phương bổng chuyển sợ hãi thành niềm vui, hay là Thái Tử thành Đạo rồi, có lẽ là thế.

Xão nữ Thị Tỳ Cúc Phương đem việc Thái Tử căn dặn nói lại cho Thần Long Nữ mẹ của Thái Tử cùng Kinh Dương Vương Cha của Thái Tử nghe. Nghe xong Thần Long Nữ, Kinh Dương Vương vô cùng mừng rỡ. Nghỉ con ta Đắc Đạo thật rồi ngũ thông khai mở. Kinh Dương Vương lại nghỉ Con hơn Cha là nhà có phúc, ta tu luyện đã hơn 70 năm cũng không được thế, có lẽ hơn hẳn các Đạo sĩ, tu sĩ của các giáo phái rồi. Thần Long Nữ cũng nghỉ như vậy liền nói, đã Đắc Đạo cao đến thế còn tu luyện nữa để mà làm gì? Kinh Dương Vương hồi tưởng lại lời nói của Thái Tử trước đây thở dài nói.

Hùng Lan sở dĩ dốc sức tu luyện để tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, cái gì là Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng thật quá mơ hồ vời vợi, chưa bao giờ nghe nói, nói chi đến việc nhìn thấy. Thần Long Nữ nghe Kinh Dương Vương nói thế cũng thở dài theo càng lo lắng cho Thái Tử, dặn tỳ Nữ Cúc Phương rằng việc hôm nay ngươi không được nói cho ai biết. Cúc Phương vân dạ rồi lui ra. Địa Tiên lấy Chân khí làm Đạo. Thiên Tiên thời tiến xa hơn nữa, tham thiền quán tưởng hành Đạo. Nói 1 cách dễ hiểu, Địa Tiên chú trọng về Khí. Thiên Tiên chú trọng về Pháp.
**************


CHƯƠNG 10

PHẦN 1

PHÁP THUẬT THẦN THÔNG.

Tuy Thái Tử biết mình đã đạt đến cảnh giới tối cao vượt trên cả Thiên Tiên và Địa Tiên. Nhưng con đường tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn còn quá xa, vì còn phải vượt qua cảnh giới vô minh của vô lượng kiếp, đầy khó khăn gian truân nguy hiểm. Nếu không hội ngộ Chân Tánh, làm chủ thấy nghe hay biết, hàng phục tâm viên ý Mã, thời dễ mắc vào bẫy lưới của Vô Minh, Ma Vương và Đại Quỉ, rơi vào con đường tà Đạo thời nguy hiểm biết là bao. Theo sự nhận biết của Thái Tử, muốn tiến sâu vào Mật Tạng vũ trụ, thời phải hiểu rõ Duy Thức chủng Tánh, Cội Nguồn của muôn loại pháp thuật Thần Thông, pháp thuật Thần Thông biến hóa, theo căn nguyên của Duy Thức. Duy Thức là cái biết đã khởi tưởng phân biệt. Ý Thức là Thần Chủ của Lực. Lực là chủ của Khí. Khí là chủ của Nước mà Nước là chủ của Đất. Hay nói một cách dễ hiểu.Duy Thức là do bản thể Linh giác Chân Tánh phân biệt khởi niệm tạo ra. Chân Tánh ví như Nước, Thức Tánh ví như bọt Nước. Duy Thức Tánh bọt Nước sanh ra liền làm chủ Thể Lực mà Thể Lực là chủ của Thể Khí mà Thể Khí là chủ của Thể Lỏng Nước, Nước lại là chủ của Thể Đặc Đất. Sự liên kết của Ngũ Thể. 1: Thể Thức. 2: Thể Lực. 3: Thể Khí (Hơi). 4: Thể Lỏng (Nước). 5: Thể Đặc (Đất). Thành một chuỗi nhân duyên hệ thống giây chuyền liên kết móc xích cuốn hút vào nhau.

Chỉ cần ý tưởng khởi niệm chuyển động thời Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc bị cuốn hút hoặc phản ép theo ý tưởng ấy ngay. Tất cả mọi suy nghỉ, mọi suy tưởng, mọi suy luận đều gọi là Duy Thức cả, pháp thuật Thần Thông, không ngoài nguyên tắc, Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức luân phiên biến hóa, tạo ra cảnh giới Duy Thức Thần Thông.

Duy Thức Thần Thông, Duy Thức Suy Luận, Duy Thức Suy Tưởng, Duy Thức Khoa Học, Duy Thức thuộc hệ nhận thức, Duy Thức thuộc hệ Vô Thức, Duy Thức thuộc hệ tưởng không phải là tưởng, phi phi tưởng xứ v.v… Nói chung những nhốm hệ Duy Thức này được Thái Tử phát huy khai thác tận dụng rốt ráo.

Duy Thức Thần Thông là loại Duy Thức pháp thuật Thần Thông biến hóa, có một sức mạnh tổng thể nối liền từ vô hình đến hửu hình, từ vô sắc đến hửu sắc, từ vô tướng đến hửu tướng, vô vi chuyển hóa hửu vi. Vì thế ý tưởng đã khai tưởng ra cảnh giới gì thời Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức ứng dụng biến hiện ra cảnh giới ấy, thu hút cuốn hút Lực khí nước đất ứng dụng theo hiện ra cảnh giới đó, gọi là pháp thuật Thần Thông.

Duy Thức Thần Thông là hệ Duy Thức Mật Tạng đa dạng biến hóa khôn lường, không thể nào luận bàn cho hết được, nếu không phải là Phật Trí, Thánh Trí thời khó mà nhận biết được. Chỉ một việc Thái Tử mới khởi tưởng về Thần Thông, thời các hệ Duy Thức khác liền hội nhập vào ý tưởng đó ngay. Giống như ánh sáng nhập vào ánh sáng, không có sự chướng ngại nào cả, hàng vạn hệ Duy Thức hội nhập vào một hệ Duy Thức không chướng ngại gì cả mà chỉ làm tăng thêm uy lực mầu nhiệm biến hóa cho pháp thuật Thần Thông mà thôi. Để hiểu thêm pháp thuật Thần Thông, vô vi chuyển hửu vi, vô hình chuyển hửu hình, sự chuyển vận đó phải qua trung gian, Thể Lực và Chân khí.

Ý Thức khởi tưởng, Duy Thức vô vi, Lực - Khí là Thể Lực vừa vô vi vừa hửu vi, Thể Lỏng, Thể Đặc thuộc hửu vi. Một khi ý Thức khởi tưởng chuyển biến thời Thần Lực Chân Khí cuốn hút chuyển biến theo, thu hút Thể Lỏng Thể Đặc Nước Đất hiện ra cảnh giới ý tưởng của Duy Thức. Có thể nói cảnh giới ý tưởng vô vi thuộc hình, cảnh giới hửu vi chỉ là cái bóng của ý tưởng Duy Thức mà thôi. Hay nói một cách khác, cảnh giới tâm thức luôn luôn tồn tại trong tâm thức (Hình). Cảnh giới hửu vi chỉ là cái bóng của Hình, đã là cái bóng của Hình, đủ nhân duyên thời nhốm hợp theo nghiệp lực của Hình, hết nhân duyên nghiệp lực thì tan rã, từ Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc trở xuống, còn Duy Thức cảnh Hình không tan hoại nhập vào pháp Tạng Duy Thức, lưu trử tại đây. Nói tốm lại, Linh Hồn cùng thể xác chung một nhịp sống, như bóng với hình, như hình với bóng, nối liền với nhau qua nhịp cầu trung gian Thể Lực và Thể Khí. Một khi Chân Khí Thể Lực cạn kiệt thời Linh Hồn thể xác tách đôi, Hình còn bóng mất.

Vì vậy Linh Hồn muốn bảo tồn sự trường thọ của thể xác, thời phải tu Thiền luyện khí, người thường Tục không hiểu được điều này nên không chú trọng đến tu Thiền luyện khí, để kéo dài tuổi thọ, người thường Tục Chân Khí và Thần Lực chỉ đủ duy trì sự sống, thông qua lối hít thở theo quán tính tự nhiên bình thường. Nên đối với việc pháp thuật Thần Thông thời rất xa lạ, thật ra pháp thuật Thần Thông luôn luôn tồn tại bên họ, cũng giống như mù không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng thật ra ánh sáng mặt trời ở ngay trên đầu họ, chẳng ảo tưởng xa xôi chút nào.

Thần Lực vũ trụ, Chân Khí vũ trụ không ở đâu xa luôn luôn tồn tại ở sát bên người nhưng ít ai nhận ra giá trị Chân Khí, Thần Lực năng lượng sống vũ trụ, sức mạnh vũ trụ, để rồi thu nạp Chân Khí, Thần Lực vũ trụ làm tăng sức mạnh con người, con người tục vì không nắm bắt được năng lượng sống vô giá ấy, nên phải làm con người thường tục, thân xác nặng nề đầy dẫy bệnh tật, tiết thay.

Thái Tử là nhà Khoa Học vũ trụ quá hiểu rõ điều này, nên việc tu Thiền luyện khí mau đạt kết quả, kết tụ nhị xác thân nhanh chóng Thần Lực, Chân Khí sung mãn đạt đến cảnh giới Tam Hoa tụ Đỉnh, Ngũ khí triều dân, nên việc tu luyện thuật xuất Hồn ra khỏi thể xác phàm tục, Linh Hồn Thái Tử giờ đây đã có nhị xác thân, tức là cái Thân Tinh, Khí, Thần, đã kết tụ do tu Thiền luyện khí kết hợp với Tinh Thể của Thái Tử tạo ra.

Trước khi luyện tập pháp thuật xuất hồn Thái Tử ngồi xếp bằng điều hòa Chân Khí. Sau đó thời yên lặng trong cảnh giới Đại Định, rồi khởi tưởng Linh Hồn bay lên ra khỏi xác thân, rồi hạ xuống nhập vào thi thể, cứ thế Thái Tử tập đi tập lại nhiều lần, càng lúc càng thuần thục hơn cho đến khi xuất hồn nhập hồn như ý.

Để mở rộng thêm phạm vi hiểu biết về Thuật xuất hồn, đối với việc xuất hồn rất dễ đối với người tu Thiền luyện khí, nhất là những người tu Thiền luyện khí đã kết tụ nhị xác thân. Còn rất khó khăn đối với người thường tục, vì Linh Hồn người thường tục phần lớn Linh Hồn hoạt động đều nương theo thể lực, con người nương khí hít thở theo tự nhiên quán tính của con người nên khó mà xuất hồn ra khỏi thể xác phàm tục vì bị lệ thuộc vào Thần Lực, Chân Khí của thể xác, bộ máy sống tiểu Thiên vũ trụ. Vì tu Thiền luyện khí nên Linh Hồn Thái Tử không còn phụ thuộc vào Thần Lực Chân Khí sẵn có của thể xác mà còn làm cho thể xác Thần Lực, Chân Khí sung mãn đạt đến cảnh giới Tam Hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dân. Lúc này Thái Tử chỉ cần một ý niệm khởi tưởng, tức thời Thần Hồn Thái Tử nhị xác thân ra khỏi thể xác phàm tục ngay. Lúc này nếu có người để ý thời không khỏi kinh ngạc, vì nơi Thiền phòng luôn có mặt hai Thái Tử, một Thái Tử ngồi Thiền, một Thái Tử đang hoạt động như bóng Ma. Thể xác phàm tục từ đây đối với Thái Tử chỉ là một lớp áo da Thái Tử thường mặt mà thôi.

Và cho đến một hôm, Thái Tử liền xuất hồn ra khỏi lớp áo da thể xác phàm tục tưởng mình bay lên không trung nhắm hướng trung Đông, Tây Tây Bắc bay đến dãy núi cao nhất vùng Tây Tạng. Nhị xác thân là thân xác Tinh Khí Thần. ((Thần Lực – Chân Khí và Tinh Khí)). Thể xác nầy nhẹ, không những giảm đi lực ép của vũ trụ mà còn giảm luôn lực hút của trái Đất, thân thể luôn theo ý Linh Hồn muốn nặng thời nặng muốn bay thời bay. Đứng trên đỉnh núi của dãy núi cao nhất, có lẽ nghìn năm không có dấu chân người, có lẽ đây chính là nơi lý tưởng để cho Thái Tử tu luyện pháp thuật Thần Thông.

Thái Tử đứng trên đỉnh núi cao hớp một luồn Chân Khí, tức thời Thái Tử bổng to như người khổng lồ, nếu lúc này có người nhìn thấy họ sẽ khiếp hoảng sợ hãi ngất đi.

Đây nói về thể xác phàm tục Thái Tử vẩn luôn trong tư thế ngồi Thiền, tim vẩn đập máu vẩn lưu thông, vì sao lại có chuyện lạ như thế. Không có gì là chuyện lạ cả, thể xác con người là bộ máy sống, chỉ cần có Chân Khí là nó vẩn sống động bình thường. Thái Tử đã khai thông kinh mạch huyệt Đạo, lại khai thông các lỗ chân lông, lại tập cho bộ máy sống thể xác thu nạp Chân Khí theo lỗ chân lông, bộ máy sống thể xác tự nó hấp thu Chân Khí nên lục phũ ngũ tạng hoạt động bình thường, máu huyết lưu thông nhờ huyệt Đạo kinh mạch thông suốt. Thể xác thường không được thế, khi Linh Hồn rời khỏi thể xác, thời phổi ngừng thở không thu nạp được năng lượng sống Chân Khí vũ trụ, nên lục phũ ngũ tạng ngưng hoạt động theo, thể xác dần dần tan rã. Thể xác Thái Tử như cổ máy thu hút năng lượng sống Chân Khí vô tận, cũng giống như người tài xế đã rời khỏi xe nhưng xe vẩn còn nổ không tắc vì còn đầy đủ nhiên liệu đủ yếu tố để hoạt động.

Nói về Thái Tử ở trên đỉnh núi cao hớp một luồn Chân Khí làm cho Chân tướng trở nên to lớn dị thường. Pháp thuật Thần Thông là pháp thuật do Duy Thức ứng dụng năm nguyên tắc để biến hóa là Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức để biến hóa. Thức sắc, thức thọ, thức hành, thức biến hay nói một cách dễ hiểu, sắc thức, thọ thức, tưởng thức, hành thức và ý thức. Khởi dụng Thần Thông biến hóa, nếu không phải mắt Phật mắt Thánh thì không thấy nổi. Muốn biến thành cọp hay biến mình thành cọp trước tiên Thái Tử hình dung con cọp (Thọ) rồi khởi tưởng ra con cọp (Tưởng) hiện rõ màu sắc móng vuốt mắt mũi (Sắc) con cọp đang sống động (Hành) sau cùng là ý thức khởi động con cọp tự nhận thức ra mình là cọp (Thức biến). Cuộc hành trình pháp thuật Thần Thông như sau. Trước tiên Thái Tử hình dung con cọp, đó là sự hình dung tổng quát chưa rõ nét (Thọ Thức) thức thứ 2 liền xuất hiện. Khởi tưởng hình con cọp rõ nét hơn (Tưởng Thức) thức thứ 3 liền xuất hiện làm cho con cọp lộ rõ màu sắc đến rõ nét hoàn hảo (Sắc Thức) thức thứ 4 xuất hiện làm cho con cọp sống động (Thức Hành). Sau cùng là thức, thức thứ 5 ý thức tự nhận thức ra mình và chuyển động toàn thân theo ý muốn, tức thời thân hình Thái Tử biến mất thay vào đó là một hình thể con cọp. Để hiểu thêm về pháp thuật Thần Thông, ví như người làm bánh, có bột mới làm bánh, không có bột muốn làm bánh cũng không làm đươc, bột làm bánh ở đây là nói đến Tinh Khí Thần, người thường cũng có Duy Thức , khởi ra sắc thọ tưởng thành thức, đó chỉ là cái khuôn trống rổng, vì thiếu bột để thành bánh. Thái Tử thời lại khác có cả khuôn lẩn bột đầy đủ chỉ cần người thợ khéo tay sẽ làm ra đủ dạng hình của bánh.

Thái Tử tu luyện thuật biến hóa chỉ trong chốc lác đã thành thục. Thái Tử chỉ khởi tưởng ra hình con cọp to lớn, tưởng mình là cọp đang vồ lấy con mồi, tức thời một lằn chớp nổi lên, Thái Tử biến đâu mất, một con cọp xuất hiện ngay sau đó, chạy nhãy một hồi, con cọp lắng yên tâm trí trở lại, hồi tưởng về mình là Thái Tử, con cọp tức thời rùng mình biến mất hiện nguyên hình là Thái Tử. Cứ như thế Thái Tử tu luyện tập đi tập lại Thần Thông biến hóa từ chậm cho đến nhanh, chỉ cần khởi tưởng liền biến hóa được ngay. Đúng là ý đã khởi thời thức đã biến ra hình dạng nào, thời Tinh Khí Thần cuốn hút theo hiện ra hình tướng đó.

Để có pháp thuật Thần Thông biến hóa cao hơn, từ biến hóa đơn tiến lên biến hóa phân thân. Thái Tử ngồi yên lặng 2 bàn tay bắt ấn cung Dần khởi tưởng ra năm con cọp lớn, theo phương vị ngũ hành. Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Con màu xám, con màu vàng, con màu đen, con màu trắng, con màu đỏ. Khởi tưởng cho đến khi thấy rõ năm con cọp hiện ra trong tâm thức hết sức sinh động rõ ràng từng bộ phận, sắc lông, miệng mũi, chân cẳng, móng vuốt nhất nhất sinh động rõ ràng. Lúc ấy Thái Tử đã quên mình, và chính mình là năm con cọp, với tư thế sắp vương mình chạy nhảy. Năm con cọp liền hớp một luồng Chân Khí, đồng loạt vương mình tung bay chạy nhảy, tức thời một lằn chớp nổi lên Thái Tử liền biến mất, thay vào đó là năm con cọp to lớn hiện ra, với khí thế hung hảm vô cùng gầm rú chạy nhảy làm vang động cả núi rừng, Chim muôn dã thú kinh hồn khiếp vía, sau một hồi chạy nhảy gầm rú, khí lực hùng hảm dần dần hạ xuống tâm ý trở lại lắng trong, năm con cọp đã nhận thức ra mình là Thái Tử, liền xả ấn rùng mình biến mất hoàn hình trở lại là Thái Tử. Cứ theo phương pháp ấy Thái Tử biến thành năm con cọp, rồi lại hoàn hình trở lại, luyện đi luyện lại mãi, luyện đến xuất thần nhập hóa, vừa khởi tưởng thời năm con cọp đã hiện ra.

Đối với người thường tục cho việc pháp thuật Thần Thông là một sự huyền bí, lắm khi còn cho đó là huyền thoại không thật có. Còn đối với người giác ngộ Chân Tánh thấu rõ Chân Tâm, cũng như người tu Thiền luyện khí, thời pháp thuật Thần Thông là đều có thật, hể dày công tu luyện thời có nó. Đối với người giác ngộ Chân Tánh, thấu rõ Chân Tâm, thời pháp thuật Thần Thông chỉ là trò ảo thuật khoa học mà thôi. Liên kết ý tưởng liên hợp Duy Thức biến hiện tạo ra cảnh giới Duy Thức vô vi, cuốn hút Tinh Khí Thần hiện ra cảnh giới hửu vi, cảnh giới Duy Thức là hình, cảnh giới vật thể là bóng, hình và bóng giống hệt nhau, liên kết giữa hửu và vô, giữa Thức, Lực và Chân Khí Tinh Khí.

Muốn đạt được pháp thuật Thần Thông phải dựa vào cơ sở yếu tố của nó. Thần Lực, Chân Khí, Tinh Khí và ý tưởng của hệ Ngũ Thức, Sắc Thức, Thọ Thức, Tưởng Thức, Hành Thức và ý thức gọi chung năm thức này là Duy Thức Thần Thông, tất cả cảnh giới trong tâm thức là do năm thức này khởi tạo ra cả, người mê lầm tưởng cảnh giới trong tâm, cảnh giới hiện thực trần gian là thật, còn người giác ngộ Chân Tánh thấu rõ Chân Tâm, cảnh giới nhân gian là do Duy Thức Chân Tâm, Chân Tánh vũ trụ tạo ra, tất cả chỉ là ảo thuật không thật. Cũng giống như năm con cọp do Thái Tử biến ra tất cả đều không thật. Thái Tử là bật trí huệ Chánh giác, căn cốt vào hàng thượng đẳng, nên tu Thiền luyện khí chỉ có mấy năm thành tựu kết quả ít ai làm nỗi. Thái Tử nhận định, muốn tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn, thời việc tu Thiền luyện khí rất cần thiết, vì tu Thiền luyện khí trí huệ sẽ khai mở thời coi như đã có ánh sáng soi đường đi đến tận cùng Cội Nguồn vũ trụ, tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn cứu nhân loại thoát khổ. Muốn tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, việc trước tiên là phải khai thông trí tuệ, như người mù đã được sáng mắt, như người điếc đã được thông tai, sau đó mới nói đến vận dụng. Lực, Hùng, Bi, Trí, Nhẩn, Dũng, Chí, Đức. Để vượt qua bao chướng ngại đến nơi đến đích. Đức tính thương người cứu dân độ thế là động lực thôi thúc Thái Tử vượt qua bao gian khổ, khám phá ra bao bí mật vũ trụ làm lợi ích cho cuộc sống con người.

Thái Tử nhận định việc khai thác tài nguyên vũ trụ, trong đó Thần Lực Thể Lực vũ trụ, Chân Khí, Tinh Khí vũ trụ năng lượng sống là quí hiếm hơn cả. Thái Tử không phải là nhà Đạo sỉ, Tu sỉ mà là nhà khoa học vũ trụ, tìm con đường cứu thế, đưa xã hội nhân loại đến đỉnh cao của sự văn minh Tinh Thần lẩn vật chất.

Theo Thái Tử một xã hội văn minh không chỉ văn minh Tinh Thần lẩn vật chất mà còn văn minh làm trong sạch môi trường, trong lành không khí. Nếu không phải thế, thời xã hội đó là sự văn minh mở đường cho xã hội bịnh hoạn rác rưỡi, mùi hôi thối độc hại khắp nơi, làm thiệt hại cho dân chúng, cho nhà nước rất lớn. Xã hội văn minh là xã hội tự biết phát huy nội lực sẵn có của mình, biết khai thác tài nguyên năng lượng sống vũ trụ, bồi đắp cho xã hội con người. Theo Thái Tử phát huy Thể Lực con người, đẩy lùi bệnh tật, tăng trưởng trí huệ là cơ bản thăng chốt, thiết yếu nhất.

Muốn khai thông trí huệ, Thể Lực con người không chỉ học và hành. Thể Dục Thể Thao luyện quyền múa kiếm mà còn phải tu Thiền luyện khí, khai thông huyệt Đạo kinh mạch, Chân Tâm hướng Thiện, duy trì Chính Nghĩa. Phát huy sức mạnh Tinh Thần Dân Tộc, không có con đường nào khác hơn, là tiếp thu Văn Hóa Cội Nguồn, vận hành Văn Hóa Cội Nguồn lưu chuyển khai thông mọi tần lớp xã hội các Đảng phái tôn giáo, các màu da, chủng tộc, anh em tiến gần tới công bằng văn minh xã hội.

Phát huy sức mạnh phát triển vật chất xã hội không có con đường nào khác hơn là hiểu rõ tài nguyên vũ trụ. Trong Thể Lực vũ trụ có Điện Lực vũ trụ. Trong Chân Khí vũ trụ có Dầu Khí vũ trụ. Điện Năng và Dầu Khí là 2 nguồn tài nguyên vô giá sống còn của máy móc, hai nguồn tài nguyên này dồi dào, thời mới làm thay đổi được bộ mặt nghèo nàn của xã hội. Ở thế gian máy móc thực dụng phục vụ con người phục vụ phát triển đời sống xã hội, còn ở Thiên Đàng máy móc thực dụng còn gọi là Bảo Bối. Nói cho cùng máy móc thực Dụng thế gian hay máy móc thực dụng Bảo Bối ở Thiên Đàng. Mục đích chung cũng chỉ là để phục vụ cho con người đời sống xã hội mà thôi.

Nói về Thái Tử tu luyện pháp pháp thuật Thần Thông cũng vậy, chỉ cần biết cách khai thác tài nguyên năng lượng sống Thần Lực vũ trụ, Chân khí vũ trụ, thu nạp vào bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ con người, khai thác Duy Thức tâm linh làm nên những điều huyền diệu của pháp thuật Thần Thông. Người thường tục sức mạnh Linh Hồn chỉ dựa vào Thể Lực sẳn có tự nhiên của thể xác bộ máy sống con người nhưng Linh Hồn con người không hiểu thế, lại còn hoan lạc phung phí Tinh - Khí lực con người dẩn đến kiệt huệ tinh khí lực nhanh chóng, làm cho thân thể nặng nề yếu ớt đầy bịnh hoạn. Đối với người tu Thiền luyện khí thời thân khẩu ý thường thanh tịnh, như cái lu không bị lủng chảy kín mít, Tinh Lực, Khí Lực, Thần Lực, dồi dào, đạt đến cảnh giới pháp thuật Thần Thông tự tại, nếu người nào biết kiềm chế hoan lạc, giảm bớt đi sự tiêu hao Tinh Lực Khí Lực Thể Lực con người, thời hạnh phúc sẽ đến với họ vì sức khỏe quí hơn vàng, những người chỉ biết ham ăn hố uống không kiêng cữ gì cả, hoan dâm vô độ sẽ làm giảm tuổi thọ, bệnh hoạn lũ lược sanh ra.

Xã hội máy móc chỉ cần dồi dào Điện năng và Dầu khí, làm hạ giá thành xuống thấp nhất, thời đời sống phát triển xã hội đó sẽ làm lên bao điều kỳ diệu. Một xã hội đã văn minh về vật chất, lại thêm văn minh về Tinh Thần, thấu triệt Văn Hóa Cội Nguồn, sự kết hợp phát triển ấy sẽ đem lại bao kết quả kỳ tích đến bất ngờ.
Sức mạnh con người nương vào sức mạnh vũ trụ, sức mạnh vũ trụ được con người khai thác một cách có khoa học. Thái Tử đã làm được việc ấy, sử dụng Duy Thức, ý tưởng biến hiện Thần Thông tài tình ảo diệu.

Cứ giáp tuần Thái Tử lại bay về thành Giang Nam Xích Quỉ khu vườn cấm để nhập xác ăn uống tu Thiền luyện khí vận động cơ thể. Quyền pháp, Chưởng pháp, cho huyệt Đạo kinh mạch khí huyết lưu thông, tiếp nối sự sống hết ngày rồi lại đến ngày, Thái Tử lại xuất hồn ra đi đến nơi núi cao không dấu chân người tiếp tục tu luyện pháp thuật Thần Thông, khám phá thêm về bí mật của Duy Thức Thần Thông, hầu thấu rõ tài năng biến hóa của. Chúa Tể Ma Vương và Đại Quỹ, chúng được che đậy bởi cảnh giới vô minh.

Để tiến cao thêm pháp thuật Thần Thông hơn nữa, Thái Tử liền co tay bắc ấn cung Thìn niệm tưởng rùng mình liền hóa ra năm con Rồng to lớn và từ năm con Rồng to lớn mỗi con lại hít một luồn Chân Khí làm chuyển động cả núi non, sau đó thời mỗi con Rồng tự biến hóa ra hàng nghìn hàng trăm con Rồng, với cách biến hóa này thời Quỉ Ma khiếp đảm sợ đến mất hết hồn vía rụng rời chân tay với cách biến hóa này đừng nói Ma Quỉ mà ngay cả Thiên Tiên, Địa Tiên cũng ít người làm nỗi. Trên đỉnh núi cao hàng vạn con Rồng xuất hiện, làm khiếp đảm chim muôn vạn Thú. Thái Tử không những đạt đến cảnh giới tối cao của thuật phân thân, cả thuật phân Tánh chỉ có những bật hiểu ngộ Chân Tánh, làm chủ Chân Tánh mới làm nổi.

Cách tu luyện phân thân, phân tướng, phân tánh, phân ý này là pháp thuật Thần Thông Chí Tôn vô thượng, nếu quên mất mình là ai thời khó mà hoàn hình trở lại, hàng vạn con Rồng sau cơn làm mưa làm gió, Thần Lực Khí Lực đã giảm sút, hàng vạn con Rồng nhận thức ra mình là Thái Tử tức thời hàng vạn con Rồng liền biến mất hiện nguyên hình là Thái Tử. Cứ thế Thái Tử hết tu luyện hóa Cọp rồi tới tu luyện hóa Rồng, hết hóa Rồng rồi đến hóa Công, hóa Phụng, hết loài này sang loài khác và sự tập luyện biến hóa như thế cũng mất cả hàng năm ròng.

Một hôm Thái Tử nhìn cây sanh cổ thụ hàng nghìn nghìn năm, nghỉ ta đã tập phép biến hoa Chim muôn, vạn Thú, con người, Thần Thánh cho đến các loài Ma Quỉ v.v… Ta chỉ dùng ấn thập nhị Địa Chi, ấn tam muội, ấn lưỡng nghi Âm Dương, chứ chưa dùng đến ấn ngũ hành, Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Thế là Thái Tử dùng ấn ngũ hành để tu luyện biến hóa ra đất nước, gió lửa, cảnh quang cây cối, núi sông.

Thái Tử ngồi yên lặng với tư thế tọa thiền, ngón tay giữa ấn vào giữa lòng bàn tay, rồi ngón tay cái ấn chặt đè lên ngón tay giữa, rồi khởi tưởng ra Cội sanh, cành lá sum sê, gốc rễ chằng chịt, giống hệt cây sanh Cổ Thụ trước mắt. Trong Tâm Thái Tử cây sanh Cổ Thụ đã hiện ra nhất nhất rõ ràng, ý thức Thái Tử liền khởi động cây sanh do sắc, thọ, tưởng, hành lập nên lúc Thái Tử nhận thức cây sanh là mình, mình là cây sanh tức thời một lằn chớp nỗi lên Thái Tử biến mất, thay vào đó là một cây sanh to lớn Cổ Thụ đã hiện ra giống hệt cây sanh Cổ Thụ kia, nếu lúc này có người xuất hiện thời không thể nào phân biệt được cây nào thật cây nào giã. Nói về pháp thuật Thần Thông, thời không phải con người tu luyện mới có mà ngay cả Chim muôn vạn Thú, Ma Quỉ chỉ cần tu Thiền luyện khí lâu năm là có pháp thuật Thần Thông, kể cả các loài cây, cỏ sống hàng nghìn nghìn năm cũng có pháp thuật Thần Thông nhưng không được cao minh lắm.

Thái Tử vốn con người làm chủ bộ máy sống Tiểu Thiên vũ trụ, từ bộ máy sống Tiểu Thiên vũ trụ, tu Thiền luyện khí kết tụ nhị xác thân, Thân Tướng Tiên Thiên, thọ ngan trời đất. Chim muôn vạn Thú các loài Ma Quỉ làm sao sánh được, đầy đủ 32 tướng tốt 80 vẽ đẹp. Nhị xác Thân là thân tướng, vừa vô vi vừa hửu vi, có thể thấy mà cũng có thể không thấy tùy tâm ứng dụng, vì cái thân ấy là cái thân tam bữu Tinh Khí Thần. Thần Lực, Khí Lực và Tinh Khí, cái thân này muốn biến, muốn hiện là đều do Duy Thức tạo ra. Như trên Kinh đã nói Duy Thức Thần Thông là Duy Thức ngũ uẩn biến chuyển, sắc thức, thọ thức, tưởng thức, hành thức, ý thức, năm Duy Thức này đều gọi là tâm thức, năm Duy Thức này đều gọi Duy Thức ão thuật máy móc tâm linh.

Có thể ví dụ 5 thức này như sau, ví như 5 người thợ vẽ, mỗi người có 1 cái tài khác nhau đồng vẽ 1 con chim. Người thứ nhất vẽ hình con chim. Người thứ hai vẽ lông cánh sắc màu con chim. Người thứ ba vẽ sự cảm giác cái biết của con chim. Người thứ tư vẽ sự động chuyển của con chim và người thứ năm rất quan trọng vẽ ý thức, con chim tự nhận thức ra mình rồi đập cánh bay mất. Hay có thể nói rằng năm nét vẽ chung nhau tạo lập lên con chim như thật, pháp thuật Duy Thức Thần Thông là thế. Con Chim do năm thức tạo nên là Hình, còn Tinh Khí Thần theo hình hiện bóng mà thôi, đó là thể xác hay thể chất của con Chim. Khi hình biến thời bóng theo đó cũng tan theo hình, trở về căn cội của nó.

Thể Lực vũ trụ ngày nay đã được con người khai thác, bằng cách dùng lực nam chân khuấy động thu hút tạo ra hai dòng từ trường điện lực phục vụ máy móc, phục vụ con người.

Người chưa giác ngộ Chân Tánh không bao giờ hiểu được, đã khai thác khuấy động Thần Lực vũ trụ, tức là đã động đến bản thể Linh giác của Đức Cha Trời, vì sao lại như thế Vì trên Thần Lực vũ trụ, chính là Linh giác vũ trụ, Linh giác vũ trụ có 2 phần, Trí Thân và Giác Thân. Khi chúng ta khai thác Thần Lực vũ trụ, nói theo nghĩa Đạo, khai thác Thể Lực vũ trụ nói theo nghĩa đời.

Thần Lực vũ trụ hay Thể Lực vũ trụ cũng chỉ là một, thời coi như chúng ta đã động đến Linh giác pháp Thân của Đức Cha Trời. Linh giáp pháp thân vũ trụ có tánh thấy nghe hay biết tự nhiên. Khi Linh giác bị khuấy động liền trở thành Linh Thức. Linh Thức nầy sinh ra thời Tánh thấy nghe hay biết của Linh Thức cũng hiện rõ, trong điện lực hiện ra. Để hiểu thêm về Linh giác vũ trụ một khi đã bị khuấy động, liền tạo ra Linh Thức chớ không phải tạo ra ý thức.

Người ta chỉ nghỉ vì sao điện năng lại kỳ diệu đến như thế. Phải nói là vô tận của sự kỳ diệu vì họ không hiểu trong Thể Lực vũ trụ, có Linh giác vũ trụ. Thể Lực vũ trụ bị khai thác, bị khuấy động trở thành điện lực. Thời Linh giác của Thể Lực vũ trụ theo đó biến thành Linh Thức của điện, mà Linh Thức của điện chính là Linh giác vũ trụ hiện ra. Linh giác vũ trụ đã biến thành Linh Thức của điện. Đức tính thấy nghe hay biết của Linh Thức Điện Lực cũng không có gì thay đổi so với tính thấy nghe hay biết của Linh giác của Thể Lực, vì cái tính thấy nghe hay biết liên tục không đứt đoạn hay gián đoạn, cái thấy nghe hay biết truyền miên. Vì thể nó sẽ giữ mãi cảnh giới, màu sắc, hình ảnh, khi nó đã tiếp thu sao chép.

Thời nay một số đông người xem ti vi truyền hình, quên lửng hình ảnh sống động như thật hiện ra trong ti vi truyền hình, cứ ngỡ đó là người thật nào hay đâu những hình ảnh sống động đó chỉ là hình ảnh sao chép của Điện mà thôi, như trên đã nói trong Điện có Linh Thức của Điện làm nên sự kỳ diệu đó.

Nói đến cảnh giới trong Linh Thức của Điện thời có 2 phần, Linh Thức vô sắc và Linh Thức hửu sắc. Linh Thức vô sắc là Linh Thức trong sạch. Linh Thức hửu sắc là Linh Thức đã chuyển thành màu sắc, hình ảnh, cảnh quang mà ta đã thường thấy qua màn hình ti vi.

Nhìn Thái Tử đã dùng 4 Đức tính tự nhiên thấy nghe hay biết tạo lập cảnh giới trong tâm thức hiện ra cây sanh Cổ Thụ, nhưng chỉ 4 Đức tính này dù đã liên kết với nhau cũng không thể biến hóa hay sống động như thật được, vì còn thiếu một thức chủ lực chủ chốt nữa, đó là ý thức Thần Hồn của Duy Thức. Trong cảnh giới hình ảnh sống động của Điện chỉ có Linh Thức (sắc - thọ) sắc thức, thọ thức. Còn tưởng thức, hành thức, ý thức chưa có. Hình ảnh trong Điện lực chỉ là hình ảnh sao chép của Linh Thức, sắc thức - thọ thức mà thôi. Chỉ có 2 thức này mà đã làm cho Điện đa năng kỳ bí ảo diệu vô cùng, vì sắc thức - thọ thức, Linh Thức của Điện, còn có nhiều tính khác nữa như tính phân biệt, tính đo lường v.v… Huống chi Linh Hồn con người, chỉ nói đến mỗi chủng tánh, thời có đủ ngũ thức, Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, thời diệu dụng huyền diệu biết đến dường bao, huống chi là cả một hệ thống chủng tánh Thiện, Ác, Mê, Ngộ trong tâm linh của mỗi con người.

Nhưng xưa nay mấy ai làm chủ được tánh Linh của mình đâu, tâm viên ý mã rong ruỗi mãi, lúc này lúc nọ, thọ lảnh biết bao nhiêu là sự khổ. Người Đại giác ngộ luôn luôn làm chủ Chân Tánh của mình để làm nên bao nhiêu việc kỳ diệu khám phá vũ trụ chinh phục vũ trụ giang sang máy móc mà Tổ Tiên đã tạo ra. Thái Tử tập Thần Thông biến hóa càng lúc càng cao cường, biến hóa ra núi ra sông hồ ao biển, để đạt đến đỉnh của Thần Thông biến hóa, Thái Tử chuyển sang giai đoạn hô phong hoán vũ, chuyển mình thành giông Bão mưa to gió lớn, sấm sét ầm ầm.

Một hôm trên đỉnh dãy núi cao Trời đang vào hạ, bổng dưng khí Trời lạnh lẽo mây đen xuất hiện phủ kín đầy Trời, cuồng phong mỗi lúc mỗi thêm dữ dội, chuyện lạ ấy là do Thái Tử tạo ra. Hôm ấy Thái Tử tưởng thân hình to lớn đến vài chục dặm và cao lên tận các tần mây, tay tả ấn cung tốn, tay hửu ấn cung đoài. Thái Tử hớp lấy Chân khí vũ trụ, nuốt chửng vô số luồn mây, Thái Tử liền tưởng ra một cơn mưa bão, tức thời thân hình to lớn của Thái Tử biến mất thay vào đó là cơn mưa bão lụt lội khủng khiếp sấm sét ầm ầm rung chuyển cả không gian trong phạm vi hơn trăm dặm, cát bay đá chạy, cây cối ngã đổ, núi đồi sụp lở, sức tàn phá của cơn bão lụt khủng khiếp, Chim muôn vạn Thú chết vô số kể, cơn mưa bão kéo dài đến mấy giờ liền sau đó thời tạnh hẳn. Thái Tử đã trở lại nguyên hình.

Thái Tử nhìn thấy cảnh tượng đổ nát xơ xác chết chóc thời giật mình hối hận, đã gây tổn hại đến cỏ cây, sinh linh vạn vật Thái Tử còn nhìn thấy, mước nguồn đổ về khủng khiếp tràn ngập khắp nơi làm thiệt hại con người. Thái Tử nghỉ quả thật Thủy, Hỏa, Phong là tam tai của thế gian. Từ đó Thái Tử không tu luyện pháp thuật biến hóa ra Thủy Hỏa Phong nữa sợ gây tổn hại cho sinh linh muôn loài vạn vật.

Thái Tử giờ đây có thể nói đã trở thành ông Tổ của pháp thuật Thần Thông. Ánh sáng tâm Linh đã xuất hiện, như báo hiệu Mặt Trời trí huệ sắp ra đời. Bọn Ma Vương cùng Đại Quỉ vô cùng khiếp sợ trí huệ Thần Thông của Thái Tử. Chúng rủ nhau lùi dần vào bóng u minh, vì chúng biết Mặt Trời trí huệ sắp xuất hiện.
**************


CHƯƠNG 10

PHẦN 2

NHỮNG PHÚT SUY TƯ

Thái Tử nghỉ pháp thuật Thần Thông chỉ là cảnh giới của Duy Thức biến hóa mà thôi, muốn tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, phải làm chủ Duy Thức làm chủ Chân Tánh vào cảnh giới tự nhiên Chánh Định, tiến tới đỉnh cao nhất của sự giác ngộ, hội nhập bản thể Cội Nguồn, Thức Tánh trở về Chân Tánh, bọt nước trở về bản thể nước, đi thẳng vào cảnh giới vô thức, vô ý, vô trí thấy nghe hay biết tự nhiên không một niệm khởi tưởng vào cảnh giới tự nhiên Chánh giác.

Thái Tử bay về thành Giang Nam nước Xích Quỉ khu vườn cấm, tiếp tục hành trình tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, pháp tạng vũ trụ, cũng như lời dạy của Đức Cha Trời, truyền bá để lại thế gian. Thái Tử đã vượt qua cảnh giới Thiên Tiên, Địa Tiên nhưng Văn Hóa Cội Nguồn còn quá xa. Vì cảnh giới Thiên Tiên chỉ lanh quanh lẩn quẩn trong cảnh giới Duy Thức, huống chi là Địa Tiên.
Địa Tiên chú trọng về luyện khí, Thiên Tiên chú trọng về luyện pháp. Sau 2 giờ vận hành Chân khí, tiếp đến là hít thở bằng các lỗ chân lông, sau đó liền đi vào cảnh giới nhập định, từ đây về sau Thái Tử không xuất hồn ra khỏi thể xác Tiểu Thiên vũ trụ nữa, vì thể xác con người Tiểu Thiên vũ trụ rất quan trọng cho cuộc hội nhập trở về Cội Nguồn. Thái Tử nhập định xong các giác quan đều hướng ngược vào trong.

Có nghĩa là thấy nghe hay biết trong nội thể tiến lần lên thấy nghe hay biết trong nội tâm. Ví dụ: Tai không nghe bên ngoài nữa mà nghe ngược trở vào nội thể nghe tim đập nghe máu huyết lưu thông, sau đó nghe về tánh nghe của mình, sáu Căn vốn thanh tịnh, nên sáu Căn Thức cũng mau chóng đi vào vô thức vào cảnh giới đại định, lục thông liền khai mở tối đa.

Thái Tử liền thấy nhân loại trần gian thật đáng thương, sống mãi trong cảnh sanh già bịnh chết, sum hộp để rồi chia ly, vui thì ít khổ thời nhiều, luân hồi sanh tử, khổ này chưa dứt khổ khác đã chồng lên, khổ về lạc hậu, đói nghèo, khổ về chiến tranh áp bức, khổ về tù đày nô lệ hành hạ dã man, khổ mất tự do, Quyền sống, Quyền được sống, Quyền mưu cầu hạnh phúc, đã bị kẻ quyền thế cướp đi, khi nào cần chúng lại ban cho một ít. Đây Quyền tự do, Quyền sống, Quyền được sống, Quyền mưu cầu hạnh phúc của các nô lệ ngươi đây. Nhưng thật ra chúng có bao giờ trao trả những Quyền mà Tổ Tiên đã ban tặng cho mỗi người đâu, toàn là lời bịp bộm giã dối.

Nhìn thấy cảnh con người làm khổ con người, không những khổ ở thế gian còn khổ sang Địa Ngục, cái khổ triền miên bám lấy con người, bám lấy hồn người, hồn sa địa ngục thời quyền thế còn đâu do ác nghiệp dấy khởi sa đọa vào Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh Có cảm có ứng, ác gieo ác gặt nhìn cảnh Địa Ngục Linh Hồn bị lửa đốt, Kiếm đâm, chết ở ngục này sanh qua ngục khác, cảnh khổ không sao diển tả cho hết được. Nhìn cảnh Linh Hồn bị róc thịt, lột da, nấu dầu, moi tim, rút gân vô cùng thê thảm, những cực hình dã man đau đớn nhất được đem ra sử dụng. Nghỉ mà đau lòng ai cứu lấy họ đây, lớp người trước rơi vào Địa Ngục, lớp người sau tiếp tục sa chân.

Còn cái khổ nào hơn khi đã sa đọa vào kiếp Quỉ, có ai muốn mình trở nên xấu xí như thế, đầu chẽ, mắt lồi, miệng thối, người hôi, những răng nanh trông thật gớm ghiết, mình đầy gai nhọn, da thịt xù xì còn hơn da cóc thấy mà phát tởm, phải sống nơi dơ bẩn, như Quỉ Lông Mao, chuyên ăn phân người thây thúi, sống trong cảnh giới tanh hôi, lủi thủi nơi hoang vắng bóng đêm, cô đơn tẻ nhạc hết trăm năm này sang trăm năm khác, cái khổ nào hơn đã sanh vào loài Quỉ.

Loài ngạ Quỉ còn khốn khổ hơn nữa, đầu to như núi cổ nhỏ như kim, nuốt rất khó đói khác truyền miên, đói đến nổi mũi phun ra khói, khác đến nổi miệng tuôn ra lửa ôi còn cái khổ nào hơn. Những thống khổ này không ai tạo ra cho mình cả, mà do chính mình tạo ra, gieo nghiệp ác kết quả phải thọ lảnh quả báo như thế, cũng chỉ vì Lạc Đạo sai đường, không làm chủ được tánh Linh của mình, chạy theo dục vọng đê hèn luôn luôn khởi tâm dấy nghiệp ác, lặn hụp mãi trong biển khổ trầm luân, hết kiếp người rồi tới kiếp Địa Ngục, hết kiếp Địa Ngục lại sanh kiếp Quỉ, hết kiếp Quỉ lại đến kiếp súc sanh, cứ thế lanh quanh lòng vòng khốn khổ mãi.

Thái Tử dùng huệ nhãn soi rọi chốn nhân gian, thấy Thiên Đàng không có đường lên còn Địa Ngục thời muôn vạn lối để đi xuống. Ta xem chốn nhân gian có mấy ai thật sự lo cho Thiên Hạ, đưa Thiên Hạ đến con đường hạnh phúc, mà chỉ tranh giành Thiên Hạ để xưng hùng xưng bá mà thôi. Cứu Thiên Hạ thoát khổ chỉ có con người mở rộng tấm lòng từ bị. Chiến thắng dục vọng đê hèn, chiến thắng tội lỗi, làm chủ Linh Hồn, làm chủ Chân Tánh. Đem ánh sáng Cội Nguồn đến với Thiên Hạ, giải thoát Linh Hồn về Thiên giới, khỏi phải luân hồi Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Kiếp làm Súc Sanh nào có vui gì như đầu thai làm Heo, Gà, Trâu, Bò, Dê, Ngựa, Chó, Mèo v.v… Kiếp bị người xẻ thịt nấu nhừ rán mỡ, nếu sống nơi hoang dã cũng chỉ làm mồi cho Sói, Hổ, Báo mà thôi. Sự vay trả, trả vay không dứt, may nhờ chút phước thiện, mới sanh được làm người. Linh Hồn chuyển kiếp sanh ra làm người rất khó, đã được sanh ra làm người, may mắn không tật nguyền khỏe mạnh, lại có chút trí huệ mà bỏ lở cuộc hướng lành, thời uổng lắm thay. Một phen mất thân người muôn kiếp khó trở lại.

Thái Tử là nhà khoa học Tâm Linh, thấu rõ mọi ngõ ngách huyền bí của Tâm Linh, trở thành nhà tu Thiền nhập Định cừ khôi, không dính mắc hay cảm xúc trước một hoàn cảnh, dù thuận hay nghịch, dù khổ hay vui đang xảy ra. Lúc nào cũng tự tại an nhiên, không khởi tưởng phân biệt chấp trước, luôn ở vào phương tiện khách quan ngoài cuộc. Vì không khởi tưởng phân biệt chấp trước nên lục thông càng lúc càng nhiệm mầu, huệ quang càng lúc càng sáng tỏ. Có thể nói Thái Tử đã đạt đến cảnh giới của bậc Tổ Thiền. Thấy như không thấy, nghe như không nghe, luôn luôn làm chủ Chân Tánh, làm chủ thấy nghe hay biết, không khởi tưởng phân biệt Chánh Định. Lái con thuyền Tâm Linh mỗi lúc mỗi tiến sâu về Cội Nguồn Mật Tạng vũ trụ. Thái Tử nhìn thấy Thiên Đàng, nhìn thấy Địa Ngục, hai cảnh giới trái ngược nhau,. Một cảnh giới Cực Lạc, một cảnh giới cực khổ nhưng Thái Tử không lộ cảm xúc nào cả Cho dù đó là Ma Vương, Đại Quỉ tới làm hại Thái Tử. Không phải Thái Tử là nhà vô cảm mà là nhà khoa học tâm Linh, thấu hiểu Luật Thiền Định. Chỉ cần 1 niệm khởi của tâm Linh thời huệ quang giảm sút ngay không thể nào tiến sâu vào cảnh giới Mật Tạng vũ trụ được nữa. Vì Ma chướng đã khởi lên ngăn chặn.
**************


CHƯƠNG 10

PHẦN 3

NIỀM TIN ĐỨC TIN LÀ NỀN TẢN
DẨN ĐẾN MỌI SỰ THÀNH CÔNG

Con đường tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn là một việc làm vô cùng khó khăn, phải theo phương pháp độc nhất vô nhị. Biết cách làm phát sanh ngọn lửa ý thức hiểu biết cao phát huệ rồi tiến tới Đại huệ Chánh Đẳng Chánh giác. Điều trước hết là đầy đủ niềm tin Đức tin. Tin mình làm được, tin sự quyết đoán của mình, ý mong cầu giải thoát, giải thoát cho mình, giải thoát cho người, giải thoát cho toàn nhân loại.

Thái Tử sanh ra và lớn lên như bao người phàm tục, nhưng khác hơn phàm tục là lòng thương yêu nhân loại vô bờ bến, lại thêm đầy đủ Niềm tin, Đức tin và tin vào sự quyết đoán của mình. Ý tưởng lý tưởng đã vượt lên trên nhân loại phàm phu, chưa tu mà đã trở thành người Đại Thiện, chưa học Đạo mà giới luật tinh nghiêm. Tấm lòng bao la rộng mở thương yêu nhân loại, như thương yêu chính bản thân mình.

Thái Tử đã hội tụ đủ yếu tố, bản thân, gia đình, xã hội, Đức tin, Chân Thiện và giới Luật tinh nghiêm, nên Thái Tử đã mau chóng trở thành Đức Chí Tôn Quốc Tổ vừa là Đấng cứu thế vừa là nhà lảnh tụ xã hội. Thiên tài cả Đời lẩn Đạo có một không hai trong nhân loại con người. May mắn thay tốt đẹp thay cho con cháu Văn Lang ngày xưa, cho con cháu Việt Nam ngày nay. Vì vậy con cháu Việt Nam muốn đến với Tổ Tiên Cội Nguồn. Trước hết phải đầy đủ Đức tin, niềm tin và tự tin mình sẽ làm được những gì mà ông Cha ta đã làm. Đi theo Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng thời rất dễ, vì con người xây cầu đắp lộ cho ta đi. Chúng ta chỉ cần nổ lực cần mẩn làm theo, học theo lời dạy trong Kinh, làm phát sanh ngọn lửa trí huệ, để rồi hội nhập vào Cội Nguồn làm chủ lấy mình, làm chủ xã hội, tiến xa hơn nữa là làm chủ vũ trụ giang sang Tổ Tiên lập lên cho chúng ta.

Thái Tử là Đấng Chí Tôn đầu thai xuống thế. Đức Chí Tôn là con cả của Đức Cha Trời. Theo lịnh của Đức Cha Trời xuống chốn nhân gian sanh vào bụng mẹ, nên đã quên kiếp trước của mình. Không biết mình là ai, tất cả phải làm lại từ đầu, mở đường khai lộ cho chúng ta đi. Nhưng việc mở đường khai lộ gian nan và đầy dãy khó khăn mà Thái Tử từng bước từng bước hình thành xây dựng lên con đường đó. Mỗi chặn đường là mỗi Tinh Hoa Đạo học xã hội quí hiếm vô cùng. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng là Đạo pháp Chí Tôn vô thượng. Xưa kia thời Thiên ẤN, chỉ truyền cho Quốc Vương để lại trị quốc an dân. Nhưng thời nay đã khác Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng là của toàn nhân loại, vì tất cả nhân loại đều là con cháu nhà Trời. Thời nay là thời có cả Thiên Ấn lẩn Thiên Bút, giai đoạn cực kỳ quan trọng cho sự tiến hóa Linh Hồn đỉnh cao của nhân loại con người.
**************


CHƯƠNG 10

PHẦN 4

GIAI ĐOẠN QUAN TRỌNG
HỘI NHẬP CỘI NGUỒN LÊN NGÔI
CHÍ TÔN ĐẤNG CỨU THẾ RA ĐỜI

Suốt một thời gian nhập định, Thái Tử thấy rõ Tam Thiên Đại Thiên thế giới, cũng như 18 tần Địa Ngục, như thấy rõ trong lòng bàn tay. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng vẩn chưa hiện ra. Thái Tử còn phải đi thêm một đoạn đường nữa.

Để chuẩn bị cho cuộc hành trình hội nhập Cội Nguồn, Thái Tử đã trở lại ăn uống bình thường, làm tăng thêm thể chất cho xác thân phàm tục. Thật đáng sợ mỗi khi Thái Tử tập luyện thập bát môn võ thuật, chỉ có đôi bàn tay không, đôi lúc lấy cành cây thay cho Kiếm, thế mà khi Thái Tử vung lên kình lực phát ra từ cành cây làm rung chuyển khu rừng cấm, phát khiếp cả người, ý tới đâu thời thần Kiếm liền tới đó. Thần, Thánh cũng không chống đỡ nổi. Thái Tử từ khi vào Thiền phòng đến nay gần 6 năm, những gì Thái Tử đã đạt. Đó chỉ mới là hành trang chửng bị cho cuộc tiến sâu về Cội Nguồn.

Có thể nói Thái Tử giờ đây khác hẳn người thường tục. Vì có nhị xác thân ẩn tàng trong xác Thân phàm tục, tuy hai mà một, tuy một mà hai, nhị xác thân biến thời xác thân phàm tục cũng biến hóa theo. Một hôm Thái Tử tu Thiền luyện khí xong, khởi tưởng ra cảnh giới của Nước. Tức thời thân hình phàm tục của Thái Tử biến mất, thay vào đó là cảnh giới của Nước đã hiện ra trong Thiền phòng.

Vì nhớ thương con Thần Long Nữ Thứ phi Nương Nương Mẫu Hậu Mẹ của Thái Tử, không kiềm chế được lòng thương, liền hỏi Xão Nữ Thị Tỳ Cúc Phương rằng, Cúc Phương con có gặp Thái Tử không? Cúc Phương nghe hỏi liền thưa. Thưa Mẫu Hoàng con chưa từng gặp Thái Tử lần nào nhưng hôm nay con phá lệ quyết tâm để gặp. Vương phi nghe Cúc Phương nói thế thời mừng rỡ vô cùng, chuyện này không thể cho Kinh Dương Vương nghe được, vì Kinh Dương Vương mà nghe được sẽ quở phạt nặng, có khi còn mất cả mạng, nên bà nói. Nếu Quốc Vương phát hiện quở phạt thời nói là ta biểu làm như thế. Nếu Thái Tử có quở phạt con cũng nói là ta biểu con làm như vậy. Cúc Phương nghe Thần Long Nữ Vương Phi Nương Nương nói như vậy nên lấy làm an tâm quyết gặp Thái Tử cho bằng được.

Lòng thôi thúc lại thêm tánh tò mò muốn tìm hiểu Thái Tử dạo này ra sao, tu luyện đạt tới cảnh giới nào, Cúc Phương rất thương Vương phi Nương Nương, coi Vương Phi Nương Nương còn hơn mẹ đẻ của mình nên đành đánh liều 1 phen, gặp mặt Thái Tử 1 lần dù chết cũng được. Cúc Phương nghỉ, người gì mà 7 ngày mới ăn uống một lần, có lẽ Thái Tử đã ốm đến nổi xương bọc lấy da, có lẽ giờ đây Thái Tử trông xấu xí lắm, đi đứng hết nổi nữa là khác. Cúc Phương càng nghỉ càng thở dài, đã là Thái Tử thời tiền hô hậu ủng cần gì tu luyện mệt nhọc thế này. Vì muốn gặp mặt Thái Tử nên Cúc Phương tới sớm hơn một ngày theo thường lệ ngày thứ sáu mà thôi. Vì nghỉ mông lung Cúc Phương đã tới của Thiền phòng lúc nào không hay, Cúc Phương giật mình đứng lại một hồi, nhưng sau đó lên tiếng. Thưa Thái Tử, Tỳ Nữ cần gặp Thái Tử có chút việc. Cúc Phương miệng thưa mà tim tưởng chừng như ngừng đập, Cúc Phương thưa đi thưa lại mãi mà Thiền phòng vẩn im phăng phắc, không có một tiếng động, dù cho đó là tiếng động rất nhỏ. Trời không lạnh mà Cúc Phương đã run lập cập, Cúc Phương nghỉ chuyện gì thế, Cúc Phương nghỉ hay là Cúc Phương không dám nghỉ thêm nữa. Tuy Cúc Phương đang run lập cập nhưng cũng đánh bạo đẩy cửa bước vào, cánh cửa vừa mở. Cúc Phương đã phải hồn xiêu phách lạc. Vì không thấy Thái Tử đâu mà chỉ thấy phòng toàn là Nước nhưng không tuôn chảy ra ngoài. Cúc Phương lấy tay dụi dụi 2 con mắt, cứ tưởng là mình hoa mắt nhưng không phải đây là sự thật. Cúc Phương liền bước vội vào phòng không thấy ngộp gì cả, lại thêm quần áo vẫn ráo khô. Cúc Phương sợ quá bước vội ra ngoài mặt tái mét không còn chút máu, quên cả đóng cửa.

Đây nói về Mẫu Hậu Mẹ Thái Tử thấy Cúc Phương về mặt mày có vẽ khác lạ, liền hỏi đã gặp Thái Tử chưa? Cúc Phương lễ phép thưa. Thưa Vương Phi Tỳ Nữ chưa được gặp, vì Thái Tử bận việc nên không cho gặp. Nhìn vẽ thất vọng của Vương Phi Nương Nương. Cúc Phương nghỉ tình mẫu tử thiêng liêng có tình nào hơn tình mẹ thương con. Cúc Phương biết ở lại lâu sẽ bị bại lộ. những nghi vấn bí mật mà mình đã thấy, liền xin phép rút lui.

Ngày thứ 7 lại đến Cúc Phương cố nén cơn sợ hải đem đồ ăn thức uống đến cho Thái Tử, đặc vào phòng ăn, rồi ra phòng khách chờ đợi. Đây là việc làm thường xuyên gần 6 năm nay của Cúc Phương nhưng lần này khác hẳn, Cúc Phương hồi hộp vô cùng, đã đến giờ thu dọn. Cúc Phương trở lại phòng ăn với nỗi kinh ngạc, ta có hoa mắt không vì đồ ăn thức uống đã hết sạch. Đây là điều Cúc Phương chưa từng thấy, mới hôm qua ta đã đến đây, tìm kiếm Thái Tử không gặp, lại gặp chuyện kỳ quái nơi Thiền phòng Thái Tử. Hay là hôm qua Thái Tử dạo chơi khu rừng cấm. Có gì mà dạo chứ, khu rừng cấm gần 6 năm nay không người chăm sóc hoang vu sầm uất, phong cảnh đâu còn xinh đẹp như xưa, có lẽ ta đa nghi nghỉ bậy mà thôi. Thái Tử vẩn bình an không có điều gì nhưng việc ta thấy Nước Thiền phòng Thái Tử hết sức Ma quái, việc đó thời sao đây? Hay là Thái Tử đã trở thành. Cúc Phương nghỉ đến đây thời sợ hại tái mét cả mặt mày.

Một tuần nữa lại đến, Cúc Phương vẩn làm cái việc mà mình thường làm, chờ đến giờ thu dọn đĩa bát. Cúc Phương bước vào phòng ăn nhìn thấy đồ ăn thức uống vẩn còn nguyên. Cúc Phương nghỉ có lẽ Thái Tử đã quên mất giờ ăn, thấy lạ Cúc Phương bằng đánh bạo tới Thiền phòng lên tiếng gọi Thái Tử nhưng chẳng nghe Thái Tử trả lời mà chỉ nghe như là Thái Tử đang ngủ. Cúc Phương hé cửa nhìn vào suýt nữa thì chết ngất, vì Cúc Phương thấy một con Rồng to lớn khoanh tròn đang ngủ. Cúc Phương như muốn quỵ luôn tại chổ, quên cả dọn đồ ăn thức uống, ba chân bốn cẳng lên xe ngựa trở về cung rồi sanh bịnh, nằm liệt giường mặt mày tái xanh tái mét.

Vương Phi hỏi gì Cúc Phương cũng lắc đầu, cùng lắm là nói Tỳ Nữ không biết gì hết. Thấy chuyện lạ Vương Phi cho mời nội y đến, vị nội y giỏi nhất đương triều. Nội y xem bịnh xong nói. Thưa Vương Phi hầu nữ Cúc Phương không có bệnh chi cả, chỉ vì quá sợ hãi sanh bịnh mà thôi. Nội y cho mấy liều thuốc dưỡng thần, sau mấy ngày dưỡng bệnh Cúc Phương dần dần khỏi hẳn. Suy nghỉ ta chưa một lần nhìn thấy Rồng, chỉ nghe kể mà thôi, nay ta đã thấy được Rồng, ắt sẽ có điềm lành đến với ta. Cúc Phương nghỉ tới đó liền mạnh hẳn không còn bệnh hoạn gì cả, mặt mày sáng sủa tươi lên phơi phới. Cúc Phương nghỉ Thái Tử xưa nay ở khu vườn cấm làm bạn với Rồng. Cúc Phương nhớ lại nghe Vương Phi thường kể gần đây ta nhìn thấy hào quang tỏa sáng nơi khu rừng cấm. Kinh Dương Vương cũng thấy như vậy. Cúc Phương bừng sáng trí lên, hay là Thái Tử chứng quả Đắc Đạo rồi, Cúc Phương nghỉ có thể lắm chứ.

Nói về Kinh Dương Vương đêm đêm nhìn về khu vườn cấm thấy hào quang xuất hiện càng lúc càng sáng, càng rực rỡ, thời biết con mình sắp tìm ra con đường cứu thế. Ban đêm nhìn thấy hào quang, ban ngày nhìn thấy mây ngũ sắc xuất hiện càng lúc càng nhiều. Kinh Dương Vương đang ngắm nhìn mây ngũ sắc, thời nghe tiếng chân người đi đến. Kinh Dương Vương quay đầu nhìn lại thì ra đó là tiếng chân của Vương Phi Nương Nương cùng Cúc Phương. Không hiểu vì sao hôm nay Vương Phi Nương Nương nét mặt rực rỡ như mùa xuân, dưới ánh ban mai, cả Cúc Phương cũng thế. Kinh Dương Vương nhìn 2 người nói có lẽ Đông đã qua Xuân lại đến nên Vương Phi đã hết u sầu. Vương Phi Nương Nương nói Quốc Vương bệ hạ có khác gì tôi đâu, không bao lâu nữa ta sẽ gặp lại con. Kinh Dương Vương là bật Chân Vương Thánh Đế Tâm Linh sáng suốt minh mẩn vô cùng. Nghe Vương Phi Nương Nương nói thế liền gật đầu nói rằng, đúng thế Trẩm cũng nhận định như vậy. Văn Hóa Cội Nguồn nhất định ra đời, ta là Quốc Vương chân chính cai trị vì đất nước, ta muốn được tai nghe mắt thấy một nền Quốc Đạo đưa đất nước lên tầm cao mới ngan tầm xã hội Thiên Đàng Cực Lạc. Dù có chết cũng lấy làm thỏa nguyện, Kinh Dương Vương, Thần Long Mẫu Vương Phi Nương Nương hai người như trẻ lại. Cảnh tương lai đã hiện ra. Cảm ơn Trời Đất đã ban cho đất nước Xích Quỉ Đấng con Trời làm rạng rỡ non sông Tổ Quốc.

Nói về Cúc Phương bớt sợ hãi khi nhìn thấy bao chuyện lạ nhưng giờ đây chuyển sợ thành vui. Bèn đem chuyện thấy nghe nơi Thái Tử ở kể lại cho Kinh Dương Vương cùng Vương Phi Nương Nương nghe xong 2 người lấy làm kinh ngạc lẩn sửng sốt. Hai người không hẹn nhau đồng nói con ta chứng quả Đắc Đạo rồi, Đắc Đạo thật rồi, Thành Công thật rồi. Kinh Dương Vương nói với Cúc Phương những gì ngươi thấy là do pháp thuật Thần Thông biến hóa của Thái Tử mà ra. Kinh Dương Vương dặn dò Cúc Phương, ngươi không nên kể chuyện này cho ai nghe.

Lần này đến khu rừng cấm đem đồ ăn thức uống đến cho Thái Tử, Cúc Phương nghỉ Thái Tử giờ đây có thể thấy trước biết trước mọi việc, mỗi hành động bước chân của ta. Sự suy nghỉ của ta Thái Tử đều thấy rõ cả.  Cúc Phương vừa xuống xe ngựa cách đó hàng vài trăm mét, liền nghe tiếng nói như tiến chuông ngân vọng ra. Cúc Phương ngươi đừng sợ Cha ta nói đúng đấy những gì ngươi nhìn thấy là do ta biến hóa mà ra thôi. Cúc Phương nghe xong lời Thái Tử liền ớn lạnh nổi da gà. Vì đã minh chứng suy nghỉ của mình là đúng, cuộc nói chuyện cách xa hàng 6 - 7 dặm mà Thái Tử cũng nghe được. Cúc Phương lại nghe Thái Tử nói tiếp, những gì ngươi đối với ta, công lao quả thật to lớn. Từ nay ngày nào ngươi cũng đêm đồ ăn thức uống đến cho ta vào lúc giữa trưa đúng Ngọ. Cũng như mọi khi sau giờ Ngọ, Cúc Phương vào phòng ăn thu dọn bát đĩa trở về cung thành. Đem việc Thái Tử căn dặn nói lại cho Quốc Vương cùng Vương Phi nghe.

Đây nói về nước Xích Quỹ luôn luôn được Trời ưu đãi, mưa thuận gió hòa, dân chúng luôn luôn được mùa trúng lớn, cảnh thái bình an lạc khắp nơi nơi. Khi ấy xa gần nước Xích Quỹ có nhiều Bộ Tộc nỗi lên rất hùng mạnh, nhất là bên kia phía bờ Bắc. Con cháu của Bàng Nhân Hoàng Đế có ý thôn tính nước Xích Quỹ. Kinh Dương Vương lấy làm lo lắng cho cuộc chiến tranh chống ngoại xâm này, tất cả đều trông chờ vào Thái Tử vì Kinh Dương Vương đã về già. Nay nghe Thái Tử thay đổi sự ăn uống, ngày ăn một bữa, trước đây thời một tuần chỉ ăn có một lần. Nhất là Mẹ Thái Tử hết sức vui mừng nói phải ăn uống cho nhiều mới có đủ sức để mà tu luyện. Vì muốn cho Thái Tử có da có thịt, bằng hối thúc Kinh Dương Vương cho người kiếm những đồ ăn thức uống giàu chất bổ dưỡng.

Cho tới 1 hôm Kinh Dương Vương, liền cho người vét sữa Bò với những con mập nhất trong đàng. Những con Bò sữa này với chế độ ăn uống đặc biệt, nuôi chúng hết sức công phu. Cỏ non, mật ong và những bông lúa đã ngậm sữa. Sữa được vét tử những con Bò thật khỏe mạnh đem nấu với gạo nếp thơm, pha nước Cốt Linh Chi Nhân Sâm nghìn năm được sắc lọc từ trước nấu thành một bát cháo đặc biệt dành riêng cho Thái Tử.

Nhìn bát cháo nghi ngút hương thơm, Thái Tử đã hiểu đây là bát cháo tốn nhiều công phu tâm huyết. Có lẽ đây là bát cháo quyết định sự sống còn hay tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Đạo vũ trụ. Quả thật không sai sau khi ăn xong bát cháo, thời toàn thân lừng bừng khí lực cơ thể nhẹ bổng khác thường, bộ máy sống thể xác Tiểu Thiên vũ trụ đã phát huy thần lực đến cực điểm. Không thể để bỏ qua cơ hội này, liền đằng vân giá vũ bay lên không trung nhắm dãy núi cao xa tít bay thẳng tới.

Nói về Cúc Phương ngồi chờ ngoài phòng khách cách đó khoảng chừng 50 mét, nghỉ vẩn nghỉ vơ, chợt thấy Thái Tử từ trong phòng ăn bước ra. Cúc Phương tim đập loạn lên vì đây là lân đầu tiên Cúc Phương nhìn thấy Thái Tử, chỉ còn 50 ngày nữa là 6 năm, không thể tin được, Thái Tử giờ đây trở thành thanh niên khỏe mạnh, vóc người rén chắc cao lớn đẹp như Thiên Thần gián thể. Cúc Phương sít chút nữa thời kêu lên. Thái Tử không để ý gì đến Cúc Phương nhảy lên không trung biến mất. Cúc Phương ngơ ngác nhìn theo, tưởng chừng như trải qua một giấc mơ, đã qua quá giờ Ngọ sang giờ Mùi mà Cúc Phương vẩn còn ngơ ngác. Một cơn gió mạnh vụt qua làm Cúc Phương tỉnh giấc mơ trở về thực tại vào thu dọn bát đĩa trở về cung.

Nơi Hoàng Cung Quốc Vương Kinh Dương Vương cùng Vương Phi Nương Nương chăm chỉ lắng nghe Cúc Phương kể lại những gì mà Cúc Phương đã thấy. Kinh Dương Vương nghe xong ra nhiều suy nghi. Còn Vương Phi Nương Nương Thần Long Mẫu nói, không lẽ con nó bay về Trời. Kinh Dương Vương làm thinh không nói gì cả. Đây nói về Thái Tử bay đến đỉnh cao Thượng Nguồn của các con sông lớn, ngồi dưới Cội Cây sanh Hình Rồng. Ngồi xếp bằng tam Thiền nhập Định. Phát Đại Nguyện rằng.

*- Nguyện thứ nhất: Khi ta thành Đạo thời Đạo pháp của trời sẽ tuôn chảy tưới nhuần các Châu Lục. Làm tươi trẻ Linh Hồn nhân loại, trí huệ đều được khai mở, thấu suốt Cội Nguồn vào pháp Đại Đồng Bình Đẳng tự chủ Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc.
*- Nguyện thứ hai: Khi ta thành Đạo nước pháp Chân Lý, Công Lý, Đạo Lý của Trời sẽ biến thành Nước pháp Cam Lộ, cứu khổ cứu nạn làm vơi đi bao nổi đau khổ. Khổ sinh, khổ tử, khổ già, khổ bệnh, khổ chia ly, khổ đói nghèo lạc hậu, khổ nỗi hàm oan, khổ áp bức, khổ nghịch cảnh, khổ tù đày, khổ Địa Ngục, khổ dốt dại ngu si. Biến tất cả những thống khổ ấy trở thành an vui an lạc cuộc đời.
*- Nguyện thứ ba: Khi ta thành Đạo, thời Đạo pháp của Trời Linh ứng vào hàng bật nhất cầu chi đặng nấy. Chỉ cần việc ấy không trái lại lời dạy của Đức Cha Trời tức là Chân Lý, Công Lý, Đạo Lý.
*- Nguyện thứ tư: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời biến thành Chủ Nghĩa Đại Đồng, không phân biệt màu da chủng tộc. Các Đảng phái, tôn giáo, các tần lớp xã hội, giàu nghèo, sang hèn, Ác Thiện, hể có cảm thời có ứng, có công thời có quả. Phàm Thánh cũng như nhau.
*- Nguyện thứ năm: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời thành Đạo Đại Đồng Bình Đẳng, Luật là Thầy, Đạo là Cha, Công Lý Hiến Pháp là Vua. Phàm, Thánh toàn nhân loại, đều đầy đủ các Quyền mà Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu đã ban tặng cho mỗi con người. Như Quyền tự do, Quyền bình đẳng, Quyền sống, Quyền mưu cầu hạnh phúc, Quyền quyết định vận mệnh của mình. Nhất là Quyền được Hiến pháp, Luật pháp, Đạo pháp, Công Lý cho phép. Còn những Quyền, Hiến pháp, Luật pháp, Đạo pháp, Công Lý không cho phép, đó không gọi là Quyền mà là đi ngược lại lời dạy của Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu.
*- Nguyện thứ sáu: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời sẽ biến thành những món ăn tinh thần có công năng giãi trừ vô lượng tội ác. Không còn sa đọa Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Sanh về Thiên giới, muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, Lầu Đài Cung Điện đều theo ý muốn hiện ra. Sống mãi không chết không già không bệnh, không tử.
*- Nguyện thứ bảy: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời trôi chảy không ngừng hết tiểu kiếp này sang tiểu kiếp khác. Lưu chuyển khắp ta bà thế giới, khắp năm châu bốn biển, khắp hư không vũ trụ. Làm lợi ích mãi cho nhân loại con người.
*- Nguyện thứ tám: Khi ta thành Đạo, thời Đạo trời sẽ trở thành Quốc Đạo Chính Nghĩa của mỗi dân tộc, mỗi chủng tộc, mỗi màu da. Từ Địa Ngục, Trần Gian, Thiên Đàng. Đời Đạo là một dung hòa cuộc sống, Đời vì Đạo, Đạo là Đời tuy hai mà một, tuy một mà hai. Như Lửa ánh sáng của Lửa.
*- Nguyện thứ chín: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời biến thành vô lượng quang ánh sáng soi đường cho nhân loại thoát khổ. Anh sáng Chân Lý, ánh sáng Công Lý, ánh sáng Đạo Đức, ánh sáng vật chất khoa học, vũ trụ, ánh sáng khoa học Tâm Linh Duy Thức chủng tánh, ánh sáng Đại Đồng Bình Đẳng, ánh sáng Chính Nghĩa công bằng văn minh, ánh sáng giải thoát Chánh giác, ánh sáng toàn năng toàn giác và còn vô lượng vô biên ánh sáng không thể tính đếm không thể nghỉ bàn soi đường chỉ lối cho nhân loại con người. Thấu suốt quá khứ tột cùng vị lai.
*- Nguyện thứ mười: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời trở thành Đại Đạo vũ trụ, Đạo Chung cho toàn nhân loại. Tam giáo Quy nguyên. Ngũ Chi hiệp nhất. Đồng Ngộ Chân Tánh. Đồng Thành Chánh Giác. Thanh tịnh hư không. Đại Đồng Bình Đẳng.

Thái Tử vừa phát nguyện xong, tức thời từ Địa Ngục, Trần Gian, Thiên Đàng, Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Ba cõi vũ trụ rung mình chấn động dữ dội, bừng sáng lên rực rỡ, lúc ấy nơi hư không vũ trụ phát ra tiếng nói khen rằng. Hi hửu thay, hi hửu thay, hi hửu thay. Cho con lớn của ta, lời nguyện của con sẽ thành hiện thực.

Nói về dưới cùng Địa Ngục, trên khắp các tần Trời bổng nhiên rực rở làm kinh động đến chư Thiên, chúng Quỉ Thần. Chư Thiên Chúng Quỉ Thần tự hỏi với nhau, chuyện gì thế, chuyện gì thế, hào quang chấn động này do đâu mà ra. Thời giữa hư không bổng nhiên phát ra tiếng nói. Điềm lạ này từ chốn nhân gian tạo ra. Thái Tử con Quốc Vương KINH DƯƠNG VƯƠNG.

Chư Thiên và chúng Quỉ Thần lấy làm lạ là ai thế. Thái Tử là ai thế mà có uy lực đến dường này, nghe đồn rằng Đức Chí Tôn đã sanh xuống chốn nhân gian, không lẽ tin đồn này là sự thật. Đức Chí Tôn chuyển đại pháp luân, phá tan vô minh, đẩy lùi Ma tánh, ánh sáng Chánh giác xuất hiện ra đời, Mặt Trời Đại Huệ xuất hiện tỏa sáng. Chư Thiên Quỉ Thần quá đỗi hoan hỉ vui mừng hò reo vui sướng.

Nói về Thái Tử ngồi xếp bằng yên lặng bất động dưới Cội sanh hình Rồng ánh sáng Chánh giác mỗi lúc một tỏa sáng, vì bản thể Linh giác đang phản bổn hoàn nguyên. Từ bọt Nước tan biến trở về là Nước. Từ thức Tánh trở về Chân Tánh. Tánh thấy nghe hay biết hướng ngược về chính mình, nghe trong tìm thức, thấy trong Linh Hồn. Thấy nghe hay biết ngược về quá khứ, nhờ an trụ Chánh giác làm chủ Chân Tánh. Quá khứ mỗi lúc một hiện rõ ra, thấy rõ mình ở cõi Long Vân trung Thiên giới xuống thế đầu thai. Ánh sáng Chánh giác càng lúc càng sáng soi tận cùng cảnh giới của vô minh.

Lúc bấy giờ bốn phương tám hướng ở dưới đất, bốn phương tám hướng ở trên không, chúng Ma và Quỉ dữ nghỉ rằng. Chúng ta sống chuyên nhờ vào bóng tối, nhờ vào sự mê muội ngu si của Linh Hồn con người, vô minh bảo bọc che chở cho chúng ta. Nay bóng tối vô minh sắp bị phá vỡ, ngu si mê muội, tối tăm, mờ ám trong Linh Hồn con người cũng dần dần tan biến mất. Thời còn gì Vương Quốc của ta. Ngu si, mê muội, tối tăm, mờ ám là Căn Cội của mọi tội lỗi, chính là Thành trì của Ác Ma và Ác Quỉ. Nay chúng thấy ánh sáng Chánh giác chiếu lên công phá thành trì của chúng khi vô minh che lấp Chân Tánh con người không còn thời ngu si, mê muội cũng biến mất. Thay vào đó là ánh sáng Chính Nghĩa, ánh sáng Chân Lý, ánh sáng Công Lý, ánh sáng Đạo Đức, thời chúng không còn chỗ để dung thân. Chúng liền cùng nhau kéo đến không cho Thái Tử thành Đạo. Tức thời u minh kéo đến, mây đen mờ mịt, trên không dưới đất, Ác Ma, Ác Quỉ mỗi lúc một đông, chúng thi nhau phù phép, mưa to gió lớn, sấm sét ầm ầm, mỗi lúc một thêm dữ dội. Đá chạy cát bay núi đồi như muốn sụp đổ.

Cùng lúc ấy Long Thần hộ pháp, Ngũ Long xuất hiện. Trấn giữ ngũ phương ứng dụng vào Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Rồng vàng trấn thủ Trung Ương vây quanh bảo bọc Thái Tử. Rồng Đen trấn giữ hướng Bắc. Rồng Đỏ trấn giữ hướng Nam. Rồng Trắng trấn giữ hướng Tây. Rồng Xanh trấn giữ hướng Đông. Thiên Thần trấn giữ trên không. Địa Thần trấn giữ dưới đất. Mặc sức cho Ác Ma, Ác Quỉ công phá suốt 49 ngày đêm. Sấm sét giông bão ngút trời, mưa to gió lớn gào thét khủng khiếp. Thái Tử vẩn bình yên vô sự.

Nói về dân chúng khắp châu lục bị trận đại hồng thủy do Ác Ma, Ác Quỉ gây ra suốt 49 ngày đêm, thiệt hại mùa màng, chết chóc vô số kể, nước Xích Quỹ cũng không tránh khỏi thiệt hại đó, dân chúng khắp châu lục khiếp hoảng. Thành tâm cầu khẩn với Đấng Trời Cao.

Chúng con lạy Đấng Trời Cao. Người cứu giúp chúng con, chúng con đã quá khổ. Khổ đói khổ rét, khổ đau, khổ bệnh, khổ già, khổ chết, khổ chia ly, khổ chiến tranh, khổ tù đày, khổ lao dịch, khổ sai, khổ nổi oan ức, khổ mất nước nhà tan, ôi biết bao nhiêu là nổi khổ cái khổ này chồng chất lên cái khổ kia. Giờ đây chúng con lại phải hứng chịu bao cái khổ ập đến do mưa bão gây ra. Hỡi trời xanh xin người cứu lấy chúng con, xin người cứu lấy chúng con, xin người cứu lấy chúng con. Lời nguyện cầu nhân loại khắp châu lục vang lên. Tức thời từ trên dãy núi cao thượng nguồn của các con sông lớn chảy về các châu lục. Ba Đạo hào quang rực rỡ phóng lên vũ trụ phát ra tiếng sấm lớn, làm rung chuyển vũ trụ, hiện ra vô số Mặt Trời bóng đêm biến mất. Trời quang mây tạnh, ba Đạo hào quang biến mất vô số Mặt Trời biến theo, Bình Minh tỏa sáng truyền hơi ấm về cho nhân gian mở màng ngày mới.

Thái Tử suốt 49 ngày đêm, làm chủ Chân Tánh, làm chủ thấy nghe hay biết. Thức Tánh trở về Chân Tánh ví như bọt Nước tan biến trở lại là Nước. Duy Thức tánh hội nhập Cội Nguồn, huệ quang Chánh giác càng lúc càn sáng, thành trì Ác Ma, Ác Quỉ như sắp sụp đổ đến nơi. Chúng Ác Ma. Ác Quỉ càng lúc càng khiếp sợ, chúng rủ nhau kéo đến công phá dữ dội phải nói là vô cùng kinh khiếp nữa là khác, nhưng chúng không làm gì nổi. Vì có Long Thần, Ngũ Long trấn giữ Thần Thánh bảo bọc. Huệ Quang Thái Tử sáng tới đâu, thời vô minh biến tan tới đó, hào quang Chánh giác hiện ra vô số Mặt Trời trí huệ thiêu rụi thành trì của chúng.

Cảnh giới Tổng Thể quá khứ vô lượng vô biên. Phật Thánh Tiên đã hội nhập Cội Nguồn. Đại Đồng Tổng Thể quá khứ vũ trụ. Cảnh giới tổng thể hiện tại vô lượng vô biên. Phật Thánh Tiên khắp cùng vô lượng vô biên vũ trụ đang chuyển Đại pháp luân. Cảnh giới tương lai tổng thể vũ trụ đều hiện ra, quá khứ tổng thể vũ trụ nhất nhất đều đã hiện ra. Trong tổng thể Đại Đồng thống nhất bản thể Linh giác tối cao vũ trụ. Tổng thể Đại Đồng Bình Đẳng hiệp nhất thống nhất quá khứ, hiện tại, vị lai vũ trụ đã hiện ra.

Như vậy quyền lực tối cao vũ trụ đã ấn chứng trao quyền cho Thái Tử, chuyển Đại Pháp Luân ẤN Bút đầy đủ. Tức thời ba Đạo hào quang từ Tâm Linh Thái Tử phóng lên hư không, theo tiếng kêu cứu cầu nguyện của nhân loại, theo luật cảm ứng của vũ trụ. Tổng thể toàn năng toàn giác Linh ứng vũ trụ, đã thọ ký kỷ nguyên vũ trụ. Kỷ nguyên vũ trụ Long Hoa ra đời, thừa hành di Chí Tổ Tiên, ban hành Thiên Tạng vũ trụ, Pháp Tạng vũ trụ, Luật Tạng vũ trụ, từ nơi Mật Tạng vũ trụ khai mở tại chốn nhân gian. Thế là Văn Hóa Cội Nguồn vũ trụ ra đời, cách đây năm nghìn năm.

Thái Tử Hùng Lan trở về ngôi vị Chí Tôn, thay mặt cho Đức Cha Trời, truyền bá chủ nghĩa Đại Đồng xuống nhân gian. Đại Đạo vũ trụ. Đưa nhân loại trở về Cội Nguồn qua sông mê đến bờ giác. Ánh sáng Chủ Nghĩa Đại Đồng đã tỏa sáng, Văn Hóa Cội Nguồn ra đời làm chấn động vũ trụ. Mặt Trời Chân Lý. Mặt Trời Công Lý. Mặt Trời Đạo Lý, bừng lên thiêu rụi lòng tà gian của lủ Ác Ma và Ác Quỉ.

Thái Tử đã hội nhập Cội Nguồn ở cương vị Chí Tôn, ở ngôi vị Chánh giác, quyền lực tối cao, quyền năng vô tận. Thay thế Đức Cha Trời chuyển Đại Pháp Luân. Nên sự thấy biết của Chí Tôn Thái Tử là sự thấy biết của bản thể Chân Tánh, vượt xa cái thấy biết của Thức Tánh. Tức là cái thấy biết bản thể của Nước, khác xa sự thấy biết của Bọt Nước.

Do sự thấy biết phát ra từ Chánh Đẳng, Chánh Giác bản thể Cội Nguồn. Nên Thái Tử đã thấy rõ tất cả, quá khứ vũ trụ, hiện tại vũ trụ, vị lai vũ trụ, cũng như tiền kiếp Phật Thánh Tiên quá khứ. Từ vô thủy quá khứ sanh ra, liền quên mất Cội Nguồn trở thành bất giác mê muội u minh. Trải qua vô lượng kiếp tiến hóa, vô lượng kiếp tu luyện, từ bất giác mê muội u minh trở thành Hoàng giác. Từ bọt Nước hội nhập trở về Nước, Thức Tánh trở thành Chân Tánh lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Đến khi viên mản Đại Nguyện thời hội nhập Cội Nguồn vào tổng thể Đại Đồng Bình Đẳng ngôi vị tối cao vũ trụ.

Các vị Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, đã hội nhập Cội Nguồn vào tổng thể Đại Đồng Bình Đẳng ngôi vị tối cao vũ trụ. Nếu việc đó cần thiết quan trọng đối với vũ trụ, thời các Ngài từ nơi quá khứ tổng thể Cội Nguồn Chánh giác sẽ hiện thân ra làm lợi ích cho toàn nhân loại con người.

Sở dĩ Đức Chí Tôn chưa hội nhập Cội Nguồn là vì nguyện lực Độ sanh của Đức Chí Tôn chưa viêm mãn trọn vẹn. Đức Chí Tôn đã thề nguyện, khi nào tận Độ hết thảy nhân sinh hội nhâp Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Thời ta mới hội nhập vào ngôi vị Tổ Tiên. Đấng tối cao. Đấng lập lên vũ trụ cùng con người.

Thái Tử nhìn thấy chốn nhân gian chìm đắm trong u minh khốn khổ. Thiên Đàng không có đường lên, còn Địa Ngục dãy đầy lối xuống, thương thay đáng thương thay. Chốn nhân gian có mấy ai thật sự lo cho Thiên Hạ, mà chỉ tranh giành Thiên Hạ để được lợi lộc mà thôi.

Chỉ có những người giác ngộ, những người thật sự thương dân, mới thật sự cứu dân thoát nạn, mà chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Đại Đạo vũ trụ, mới mong cứu nhân loại thoát khổ. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Đại Đạo vũ trụ cao thâm khó hiểu. Nhất là hoàn cảnh hiện nay, trình độ dân trí còn quá thấp kém, lại thêm đời sống còn quá nghèo hèn lạc hậu. Chữ nghĩa giấy mực chưa tinh vi còn quá lạc hậu thô sơ, không thể nào lưu chép Kinh Luân để lại được. Vì thế ta phải sanh xuống nhân gian tới ba lần, và lần này chỉ là khai mở nền móng Cội Nguồn, mở màn kỷ nguyên Long Hoa vũ trụ ra đời, để lại Thiên ẤN. Lần hai tái sanh nhân gian ta sẽ để lại cả ẤN lẩn Bút, thời Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng lưu chuyển ra đời.

Lần thứ ba giữa tiểu kiếp thứ 10 Đại hội Long Hoa toàn vũ trụ. Thọ Ký cõi nước Cực Lạc cho những người có công trong Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng theo Di chí Tổ Tiên. Cha Trời, Địa Mẫu.

Theo Thiên Luật vũ trụ, Phật, Thánh, Tiên sanh xuống chốn nhân gian, thời phải sống theo luật nhân gian. Hôm nay ta vẩn còn Phụ Thân, Phụ Mẫu, thương yêu ta hết mực, mang nặng đẻ đau, nuôi nấng nâng niu, chăm sóc, biết bao khó nhọc. Đạo làm con phải lo báo hiếu, đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục. Theo Thiên Luật trong các điều khoản báo hiếu, thời khuyên Cha Mẹ làm lành lánh dữ là cao hơn cả. Phục vụ Cha Mẹ ăn ngon, mặt ấm chỉ là bậc tiểu hiếu, khuyên Cha Mẹ làm lành lánh dữ là bậc trung hiếu, truyền Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đạo vũ trụ đó mới là bậc Đại Hiếu.

Vì thế Đại trung với Tổ Quốc. Đại hiếu với dân là tôn thờ Văn Hóa Cội Nguồn. Truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn cho toàn dân. Chúng ta sinh ra và lớn lên trong sự yêu thương và đùm bọc của cha mẹ. Trong sự che chở của xã hội. Theo Thái Tử, để đền đáp công ơn ấy Không có gì hơn là truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đạo Vũ Trụ cho cha mẹ, cho nhân loại xả hội, thời coi như đã trả được tứ ân. Ân Cha Mẹ, ân Tổ Quốc, ân Thầy, ân Xã Hội.
**************


CHƯƠNG 10

PHẦN 5

TIỀN THÂN THÁI TỬ

Thái Tử nghỉ tiền thân kiếp trước của ta. Đức Chí Tôn Giáo Tổ, Kim Thân của ta hiện nay đang tỉnh tọa ở cung Long Vân, cõi Trời Thiên Vân Cữu Trùng Bảo Tháp. Chư Thiên canh phòng nghiêm ngặt.

Thái Tử vốn hiểu rõ việc Chư Thiên sanh xuống chốn nhân gian là điều không ai muốn dù cho đó là hưởng tột đỉnh vinh hoa phú quí. Sanh xuống nhân gian đồng nghĩa là sanh vào cõi u minh bể khổ tối tăm mù mịt Địa Ngục trần gian. Sanh xuống nhân gian thời dễ nhưng trở về Thiên Đàng thời rất khó, phải nói là vô cùng khó, có khi còn đọa luôn xuống cõi âm phủ, thời coi như hết đời vì đã lạc vào ba đường khổ. Vì thế Phật Thánh Tiên Thần Chúa phần đông sanh xuống chốn nhân gian thi hành phận sự. Đều cầu nguyện Đức Cha Trời hộ độ.

Thường sanh vào nghịch cảnh, chịu trăm nghìn sự thống khổ, đánh thức tâm Linh hồi âm chuyển ý hướng thiện xa rời tội ác. Rất hiếm Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa sanh ra chốn nhân gian để hưởng vinh hoa phú quí vì hưởng vinh hoa phú quí sẽ dẩn dắc Linh Hồn sa đọa nhanh chóng, ác tâm dấy khởi hết mong về Trời. Hết mong trở về ngôi vị cũ.

Trường hợp Đức Chí Tôn, sanh xuống chốn nhân gian vào Dòng Dõi Quốc Vương mà không bị Danh, Lợi, Quyền thế, Bát phong, Lục trần xoay chuyển là điều hi hửu hiếm thấy trong đời. Cho nên nói, đang hưởng vinh hoa phú quí muốn gì được nấy. Mà chuyển tâm hướng thiện làm lành lánh dữ là điều hiếm thấy. Phải nói những người này phần lớn là các vị Đại Thánh Đại Bồ Tát, ví như Hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Với khoản thời gian quá ngắn nơi chốn nhân gian, Thái Tử phải cố gắng mới hoàn thành nổi theo di chí của Đức Cha Trời,. Trở lại Trung Thiên giới.

Theo lời dạy của Đức Cha Trời Long Hoa Lạc Long Quân. Chốn nhân gian tiểu kiếp thứ 9 sắp hết, 16 triệu 800 nghìn năm sắp qua gần đến hồi kết thúc. Chuyển sang tiểu kiếp mới là tiểu kiếp thứ 10.

Gần cuối tiểu kiếp thứ 9 càng về sau nhân loại càng gặp nhiều đại họa hung hiểm do bộ máy huyền cơ xoay chuyển. Động Đất, nước biển dân cao, mưa to gió lớn, nhiệt độ tăng cao, nhiệt độ hạ thấp, nhân loại con người khó mà thoát khỏi kiếp nạn này. Giai đoạn càng về sau càng gần cuối tiểu kiếp, Động Đất diển biến phức tạp, càng về sau càng mạnh, lan rộng toàn cầu, những thành phố lớn chôn vùi đỗ nát. Nhân loại chạy đâu cho thoát những cảnh chết chóc này. Càng về cuối tiểu kiếp mực nước biển dần dần dâng cao. Làm ngập chìm lần đất đai các châu lục, cọng thêm mưa to bão lớn tàn phá cây cối, mùa màn, lở núi sụp đồi, nhân loại phàm trần làm sao chống đở nỗi đành phải bỏ mạng. Nào phải chỉ có vậy nhiệt độ tăng cao, hạ thấp nhất là những thế kỷ gần cuối tiểu kiếp, nhiệt độ tăng đến nổi con người còn sống sót phải ở lỗ ở hang. Hỏa hoạn do sấm sét thường xảy ra khắp nơi cùng khắp châu lục. Nhiệt độ hạ thấp đến nổi nơi đâu cũng toàn băng giá, con người dù thích nghi lần với thời tiết nhưng vẩn có người không nổi đành bỏ mạng. Nhưng điều đáng nói ở đây, thể xác nhân loại bị hủy diệt do Động Đất, do nước biển dân cao, do mưa to bão lớn, do thời tiết tăng cao hạ thấp, nhưng Linh Hồn nhân loại sẽ về đâu khi Thiên Đàng không có lối lên, còn Địa Ngục thời nhiều lối xuống.

Và vì thế Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần mở ra con đường Đại Lộ đưa Thiên Hạ về Trời. Mà Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Đại Đạo vũ trụ chính là con đường đưa Thiên Hạ nhân loại phàm trần về Trời. Cuối tiểu kiếp thứ 9 chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, nhân loại những ai còn sống sót chu kỳ lặp lại khởi đầu sự Hồng Hoang người tiền sử nguyên thỉ. Rồi sau đó hàng triệu năm chuyển sang giai đoạn Hồng Bàng Giai đoạn Bàng Cổ sơ khai kéo dài hàng triệu năm tiến tới Hồng Bàng xã hội. Sự tiến hóa nhân loại theo chu kỳ ở mỗi tiểu kiếp na ná giống nhau, lặp đi lặp lại mãi. Cũng giống như chu kỳ Xuân Hạ Thu Đông ở năm trước, được lặp lại Xuân Hạ Thu Đông ở năm sau. Sự trùng lặp này là sự trùng lặp theo định luật tự nhiên. Cứ mỗi tiểu kiếp gần kết thúc nhân loại đã trải qua 16 triệu 800 nghìn năm. Tôi luyện tiến hóa Linh Hồn, những Linh Hồn có Đạo có Đức lần lượt sanh về Trời. Còn những Linh  Hồn vô Đạo vô Đức sẽ trở về cõi âm phủ. Còn những Linh Hồn Đại ác sẽ đọa vào Địa Ngục. Những Linh Hồn ở cõi âm phủ chờ đủ nhân duyên, đầu thai trở lại nhân gian tiếp tục tu luyện tiến hóa Linh Hồn. Để cứu vớt nhân loại gần cuối tiểu kiếp thứ 9 nên Tam Giáo lần lượt tái xuất nhân gian diều dắt nhơn sanh về Trời. Nếu không có tam giáo Phật, Thánh, Tiên ra đời, thời Linh Hồn nhân loại nhân gian sẽ lạc vào tà Ma ác Đạo, trở thành Ác Quỉ, Ác Ma cùng hung cực ác. Buộc lòng Đức Cha Trời phải tận diệt trí mạng của Ác Ma và Ác Quỉ, nếu không tận diệt thời bộ máy huyền vi vũ trụ sẽ bị Ác Ma Ác Quỉ làm đảo lộn. Đức Chí Tôn là bật tối cao ở Thiên giới con cả Đức Cha Trời, làm gương mẫu mở đường xuống thế trước. Cho các đàn em xuống thế sau.

PHẦN THƯA HỎI :

Hỏi: Vì sao cuối tiểu kiếp thứ 9 mực nước Biển lại dâng cao ngập chìm hầu hết các Đồng Bằng Châu Lục?

Đáp: Theo nguyên lý Tiến Hóa vũ trụ, hể có sinh thời có tử, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Thể lực vũ trụ do bản thể Linh giác vũ trụ tạo ra, hể có sinh thời có tử, từ dạng này chuyển qua dạng khác. Thể Lực cũng vậy, Thể Lực được sanh ra thời phải đến lúc già đến lúc tử, chuyển sang qua dạng khác, giai đoạn khí. Khí già chuyển ra nước ở dạng thể hơi. Nước già sẽ chuyển thành màu mỡ lớp bụi phù sa vũ trụ và bị ép rớt xuống mặt Địa Cầu. Như trên đã nói Thể Lực già chuyển sang thể khí. Thể khí già chuyển sang thể lỏng nước. Như chúng ta đã biết hơi nước và nước là là do nhiệt độ nóng lạnh tạo ra. Gần cuối tiểu kiếp nhiệt độ nóng lanh hạ thấp, tăng cao, làm cho thể lỏng ở lúc dạng hơi, lúc ở dạng nước. Nhiệt độ trên các tần khí quyển hạ xuống thấp, thời các tần lớp ở dạng thể hơi, đều chuyển thành nước rớt hết xuống mặt đất, Làm giảm đi sự kìm hảm bớt sức nóng của Mặt Trời. Thế là dưới mặt trái đất nhiệt độ tăng cao làm cho Băng tuyết băng giá ở hai đầu cực Nam, cực Bắc tan chảy làm tăng thêm mực nước biển. Với hai nguyên do chính trên đã làm cho mực nước biển dân cao làm ngập chìm hầu hết các đồng bằng của các Châu lục.

Hỏi: Vì sao giữa tiểu kiếp thứ 10 mực nước biển cạn lần lộ ra đất đai bằng phẳng rộng lớn?

Đáp: Như chúng ta đã biết hể có sanh ra thời phải có già, có tử, vì thế Thể Lỏng nào có ngoại lệ. Lớp nước gìa ở cuối tiểu kiếp thứ 9 chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, thời bắt đầu thái hóa sự già cỗi, cô đọng chuyển thành phù sa. Sự chuyển hóa ấy có hai lớp, lớp nước già nằm sâu trong lòng đất, Đại Dương và lớp nước già nằm sâu, dưới lớp đáy đại dương, cô đọng chuyển thành phù sa, tạo ra lớp màu mỡ mới cho trái đất. Như chúng ta đã biết Đại Đồng Bình Đẳng là Đạo Luật của Trời, đem chỗ cao lấp xuống chỗ sâu. Cuối tiểu kiếp là những trận mưa khủng khiếp làm lở núi sụp đồi, bồi lấp xuống chổ sâu, giữa tiểu kiếp thứ 10 Thể Lỏng sanh đã tăng lên đỉnh điểm, đã hạn chế sức nóng của Mặt Trời, nhiệt độ Trái Đất ổn định trở lại bình thường, Cực Nam Cực Bắc quả Địa Cầu đóng băng trở lại. Những yếu tố nói trên, làm cho mực nước biển cạn lần đất đai bằng phẳng lộ ra rộng lớn.           
**************

HẾT QUYỂN 3

0 nhận xét:

Đăng nhận xét