. . . . VĂN LANG CHIẾN SỰ 3 Quyen1 ~ tranminhthang1145

Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2016

VĂN LANG CHIẾN SỰ 3 Quyen1

QUỐC BẢO CHÂN KINH

VĂN

LANG

CHIẾN

SỰ

3

THIÊN ẤN     THIÊN BÚT

GÒ HỘI

ĐỨC PHỔ     QUẢNG NGÃI

2013

Nguyễn Đức Thông


QUYỂN 1



LỜI MỞ ĐẦU

Nói về Quốc Tổ Hùng Vương. Cùng Bách Việt khai dựng lập lên nước Văn Lang hùng mạnh rộng lớn. Giết chết ba con Yêu Tinh Quỉ dữ. Mộc Tinh, Ngư Tinh, Hồ Tinh, cùng vô số Tướng Lĩnh Yêu Tinh. Cũng như con cái, cháu, chắt, chút, chít, của ba con Chúa Tể Yêu Tinh lên đến hàng vạn vạn.


Vì thế con cháu Văn Lang là mối thù truyền kiếp của chúng có cơ hội là chúng hảm hại. Không bằng cách nầy cũng bằng cách khác. Nhất là ở các giai đoạn thời kỳ cuối các thời Hạ Hùng Vương. Thời kỳ mạc pháp Văn Hóa Cội Nguồn không còn. Nền Quốc Đạo biến mất, các quyền cơ bản con người cũng mất theo. Nước Văn Lang rơi vào cảnh tối tăm, dân chúng lạc vào tà ma ác đạo. Nguy hiểm nhất là Linh Hồn ba con chúa tinh ác Quỷ cũng như con cái cháu chắt của chúng đầu thai làm người không những ở Phương Bắc Nhà Chu, mà còn đầu thai ở Bắc Văn Lang, có cơ hội là  chuyển  xây tình thế hảm hại con cháu Tiên Rồng nhân loại Đồng Bào nói chung, con cháu Văn Lang nói riêng. Gây ra bao thảm cảnh tan thương chết chóc chiến tranh loạn lạc cùng khắp. Nhất là cảnh chiến tranh tương tàn nồi da nấu thịt ở dân tộc Văn Lang. Chúng không để yên cho Bách Việt Văn Lang  hưởng thái bình an lạc nhất là những cuộc nổi lên nội chiến kinh hồn. Dân tộc Văn Lang con cháu Tiên Rồng, con dân Quốc Tổ Vua Hùng phải chịu cảnh Đồng Bào nồi da nấu thịt. Ác Quỉ giành lấy chính quyền  biến dân tộc Văn Lang  thành dân tộc nô lệ dưới sự dày xéo nanh vuốt của chúng. Sức mạnh của Loài Ác Quỉ là chúng đầu thai làm người Phương Bắc chuyển xây tình thế xua quân  xâm lược Phương Nam. Làm cho đất nước Văn Lang đầu rơi máu đổ. Chiến Tranh đói nghèo lạc hậu khốn khổ vô cùng. Nhất là sự lừa dối cũng như sự độc tài độc trị tàn bạo cai trị thảm khốc của chúng.

Có khi chúng sanh ra trên đất nước Văn Lang. Rồi tạo lên cảnh nồi da nấu thịt. Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang, biến Bắc Văn Lang trở thành Trung Thổ Trung nguyên. Nước Văn Lang Bắc Nam chinh chiến. Dân tộc Bách Việt Văn Lang con cháu Tiên Rồng con dânVua Hùng tàn sát lẫn nhau. Gây ra cảnh Đồng Bào tương tàn. Cha con anh em, dòng họ chém giết lẫn nhau nhà tan cửa nát. Chúng đầu độc Văn Hóa ảo tưởng, nhất là Văn Hóa mê tín dị đoan, chúng nhập đồng nhập xác nói ra những điều xàm bậy làm mê muội con người. Lũ ác Quỉ lạm dụng ngôn từ trau chuốt bóng bẩy đầu độc dân chúng nhất là văn hóa Thần Quyền tôn thờ Thần Thú, Cầm Thú, Thần Vật  làm cho dân chúng quên Cội quên Nguồn. Quên đi truyền thống Nguồn Cội anh linh Tiên Rồng Dân Tộc. Làm cho xã hội luôn đi vào hổn loạn xuống cấp đạo đức chỉ biết tranh hơn, tranh thua hận thù tham lam tàn bạo. Chậm phát triển dẫn đến đói nghèo lạc hậu.

Chiến tranh truyền miên dân chúng luôn rơi vào cảnh khốn khổ nhiều mặt tinh thần lẫn vật chất, nhất là về mặt độc tài độc trị hết sức tàn bạo. Với phép thuật thần thông đa ngôn xảo ngữ của các loài Yêu tinh Quỉ dữ đầu thai chuyển kiếp làm người chúng gây ra không biết bao nhiêu thảm cảnh chiến tranh nồi da nấu thịt. Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn, đã đánh lừa được lòng ham muốn của con người. Đánh lừa được Bách Việt Bắc Văn Lang. Nhất là những giai cấp khốn khổ chạy giặc từ Phương Bắc di cư sang Bắc Văn Lang. Bọn ác Quỉ Cha Con Doãn Thường đêm trăm nghìn cái lợi dụ dỗ dân chúng. Lợi thì như núi non biển cả nhưng không còn cái răng để mà ăn. Vì mất tất cả không những về vật chất mà còn lẫn cả tinh thần, thậm chí những quyền cơ bản con người như quyền sanh sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc không còn. Chỉ biết than trời khóc đất. Những loài ác Quỉ sanh ra làm người lợi dụng lòng tin nơi chúng dân. Chúng hiện thân ra như một đấng con Trời lên ngôi Thiên Tử. Chúng muốn dân chết là chết, cho dân sống là sống không ai dám cải chỉ biết răm rắp nghe theo tin theo. Nhưng chúng không hiểu một điều, đã là Thiên Tử con Trời thời không tàn sát sanh linh nhất là con người. Luôn đem lại sự công bằng bình đẳng cho con người bảo vệ những quyền thiêng liêng con người mà Tạo Hóa đã ban cho. Những quyền bất khả xâm phạm. Thiên Tử  Con Trời thời sống theo Thiên ý Cha Trời Thiên luật Vũ Trụ không tạo ra cái cảnh nồi da nấu thịt, mà luôn đêm lại hòa bình thịnh vượng cho muôn dân. Thiên Tử Con Trời không có cảnh đi xâm lược mà luôn luôn tôn trọng chủ quyền độc lập của nhau hòa hiếu lẫn nhau. Thiên Tử  Con Trời cũng có sự cạnh tranh nhưng sự cạnh tranh công bằng bình đẳng thi đua tiến hóa vương lên đỉnh cao của thời đại theo khuôn khổ Hiến Pháp Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính cho phép. Không phải cạnh tranh hủy diệt lẫn nhau, thôn tính lẫn nhau. Thiên Tử Con Trời không có cảnh độc tài độc trị độc bá thiên hạ tranh giành thiên hạ, biến thiên hạ vào cảnh nô lệ, cướp  đất đai thuộc địa gây ra cảnh chiến tranh đầu rơi máu đổ. Những kẻ đầy lòng dã tâm tham vọng mưu đồ xưng vương xưng bá không phải Thiên Tử con Trời, mà chỉ là Yêu Tinh Quỉ dữ đầu thai. Bành trướng tham tàn ác bá độc tài đọc trị chém giết đồng loại đây chỉ là những kẻ ngụy Thiên Tử tự xưng là con Trời hầu lừa bịp dân chúng.

Thật ra những Thiên Tử tự xưng giả hiệu nầy chỉ là những kẻ thắng xưng là Vua thua cho là Giặc Xem đi xét lại Giặc với vua cũng chỉ là một thứ chẳng khác gì nhau. Những Thiên Tử tự xưng giả hiệu con Trời  đầy rẫy trong thời đại Phong Kiến. Nhất là thời đại Phong kiến Thần Giáo. Phong Kiến Địa Chủ, Phong Kiến Vua, Chúa. Nhờ vào phép thuật tu luyện hàng nghìn năm trở thành đa ngôn xảo ngữ lừa dối con người dẫn con người vào con đường tối tăm không biết đâu là phải trái Thiện ác. Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn sử dụng từ ngữ bóng bẩy lời nào cũng có lợi cho dân. Để  đánh lừa được lòng ham muốn con người. Biến giả thành chân. Che đậy  lớp võ bọc bên ngoài. Che đậy sự tham lam tàn bạo nanh vuốt của loài ác Quỉ. Chúng gây ra cho con cháu Tiên Rồng Bách Việt Dân Tộc Văn Lang bao cảnh chiến tranh nồi da nấu thịt, hết nô lệ nầy đến nô lệ khác, hết thời kỳ khốn khổ nầy đến thời kỳ khốn khổ khác làm tiêu tan đất nước Văn Lang Từ thời gần cuối Nhà Chu. Kéo dài cho đến ngày nay  hơn hai  nghìn năm mấy trăm năm.

Sự lạm sát của những loài Ác Quỉ giết hại con người quá lớn. Làm kinh động đến các Tần Trời. Phật - Thánh - Tiên - Thần - Chúa. Vì thương nhân loại Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đầu thai xuống trần. Diệt trừ Yêu Tinh Quỉ dữ  trừ hậu họa cho con người. Nhưng diệt được ác quỉ nầy thời liền mọc ra ác Quỉ khác. Thái bình thịnh trị không được bao lâu thời chiến tranh loạn lạc trở lại. Làm khốn khổ con cháu Tiên Rồng. Dân Tộc Văn Lang hết nghìn năm nầy đến nghìn năm khác. Nhất là các thời kỳ cuối thời Hạ Hùng Vương. Từ thời thứ 13 Hùng Việt Vương: Tuân Lang: 569 đến 506 trước công nguyên. Trở xuống đến thời Hùng Duệ Vương: Huệ Lang thứ 18 cuối thời Hạ Hùng Vương  306. Rồi  đến  thời Âu Lạc 258 trước công nguyên. Khốn khổ kéo dài cho đến tận ngày nay.

Trong các cuộc chiến tranh xâm lược bành trướng quân thù. Thời chiến tranh xâm lược Văn Hóa là  độc hại nhất Nguy hiểm nhất. Nhất là thứ Văn Hóa làm cho con người mất đi tự chủ. Mất đi truyền thống anh linh dân tộc Lạc Cội Lạc Nguồn. Làm cho dân tộc rã rời đoàn kết. Đạo đức xuống cấp đánh mất lương tâm con người. Làm cho con  người không phân biệt được đâu là đúng sai nữa. Thậm chí anh em tàn sát nhau mà vẩn cho là đúng, mà còn cho đó là vinh. Cái vinh đáng sợ làm sao một nhác đao chém xuống anh em vui mừng chiến thắng. Sự sai lầm nào cũng phải có ngày tỉnh ngộ chấm dứt, sự khô cằn nào cũng phải có ngày đâm chồi nẩy lộc. Dân tộc Việt Nam khốn khổ bao nhiêu thời vui sướng lại bấy nhiêu.

Văn Hóa Cội Nguồn xuất hiện thời Chân - Giả. Trắng - Đen. Chính Nghĩa - Phi Nghĩa sáng tỏ. Mặt Trời Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời thời nhân loại mới đi vào ổn định bình yên kéo dài rất lâu có thể nói thế giới nhân loại đi vào cảnh thiên đàng cực lạc trần gian nói chung Việt Nam nói riêng trong một niềm vui thái bình thịnh trị an lạc. Trên mảnh đất Địa Long Vũ Trụ  hình chữ  S  tức là nước Việt Nam Con Cháu Rồng Tiên sẽ nở hoa Chánh Đẳng Chánh Giác. Tiến tới Chủ nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ đại đồng Long Hoa hội tụ. Rồng Tiên Tỏa Sáng ra đời. Quốc Tổ Vua Hùng. Dân tộc Việt Nam. Nước Việt Nam chóa ngời rạng danh khắp cùng thế giới.
Việt Nam chữ S đất phù sa
Nằm giữa Âm - Dương  Cốt Long Hoa
Thánh Địa anh linh  từ muôn thuở
Bừng lên rực rỡ khắp hà sa
Văn Hóa Rồng tiên Đường Chính Nghĩa
Cội Nguồn tỏ rạng Cội Ông Cha
Bổn phận thế thiên hành phụng sự
Thái bình an lạc khắp Âu Ca.
*     *     *
Sống trên Địa Cốt Long Hoa
Phải là Thiên Sứ cho nhà Rồng Tiên
Trời ban Đất Việt  Linh Thiêng
Tiên Rồng nòi giống uy quyền từ đây.
*         *         *
Ở cuối thời đại Kinh Dương Vương. Hùng Vương Quốc Tổ ra đời từ Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo. Chuyển sang giai đoạn Văn Hóa Cội Nguồn Thánh Giáo. Trong triều nội Vua không làm theo ý các Triều Thần. MÀ CHỈ LÀM THEO HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP điều hành đất nước. Có nghĩa là xóa bỏ đi Độc Tài Độc Trị  không làm theo ý kiến cá nhân, cũng như nghe Triều Thần mà chỉ làm theo HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. Nền QUỐC ĐẠO bí mật của Triều Đại Văn Lang. Nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Không truyền xuống dân, mà chỉ truyền xuống Vương Quan lấy đó để trị dân, dạy dân. Ở vào thời đó chữ viết  còn quá thô sơ lạc hậu. Nên không thể lưu chép thành Kinh Văn được. Nên dẫn đến tam sao thất bổn HIẾP PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP, dần dần biến mất. Nước Văn Lang mất đi nền Văn Hiến Quốc Đạo Văn Lang liền trở về thời Phong Kiến Thần Giáo. Như thời đại Kinh Dương Vương chẳng khác gì Phong Kiến Thần Giáo, cũng như Phong Kiến Vua, Chúa ở Phương Bắc kéo dài hơn 10 nghìn năm trong các thời kỳ Phong Kiến.

Nói tốm lại :
Phong Kiến Thần Giáo độc tài độc trị: Phong Kiến Vua Chúa độc tài độc trị là những lập luận giáo điều  của mỗi cá nhân các Triều Thần mà Vua thường nghe theo và làm theo. Còn Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Thánh Giáo không dựa trên ý tưởng riêng mỗi người để tâu lên vua. Mà là nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. THIÊN LUẬT TẠO HÓA không ai có quyền tự đặc ra hoặc hủy diệt đi. THIÊN LUẬT TỰ NHIÊN VŨ TRỤ chính là nền Quốc Đạo dân tộc Văn Lang. Mà các Vua Hùng lấy đó thay nhau làm nền tản cho sự trị quốc. Đã là Thiên Tử con Trời thời phải thuận theo Thiên Luật vũ Trụ, Thiên Ý Cha Trời sống theo Văn Hóa Cội Nguồn, luôn bảo vệ quyền con người quyền thiêng liêng Tạo Hóa đã ban cho. Sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng ai cũng như ai. Không có cảnh độc tài độc trị tốm thâu quyền lực lạm sát vô tội.
**************


PHẦN 1

Sau thời Phù Đổng Thiên Vương hơn ba trăm năm mươi năm thời Cha Con Doãn Thường, nổi lên làm một cuộc chính trị tài tình nuốt trọn toàn bộ Bắc Văn Lang. Bắc Văn Lang chính là nước Xích Quỷ ở thời Kinh Dương Vương. Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang Chia cắt đất nước Văn Lang ra làm hai. Bắc Văn Lang Cha Con Doãn Thường cai quản thống trị. Chỉ còn lại Trung - Nam Văn Lang Hùng Việt Vương. Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương cai quản thống trị 569 đến 506 trước công nguyên. Mở ra thời đại đen tối cho con cháu Tiên Rồng. Đất nước Văn Lang đi vào cảnh Bách Việt nồi da nấu thịt. Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng là Việt Vương: Vì dân tộc Văn Lang là dân tộc Bách Việt, muốn hợp lòng dân thời Cha Con Doãn Thường phải xưng Việt Vương, Vua Việt, thời dân chúng bách Việt mới theo về che chở bảo vệ. Có thể nói Cha Con Doãn Thường rất thông minh lại có mưu đồ lớn nuốt trọn nước Văn Lang lật đổ thời đại Hùng Vương, thay thế thời đại Việt Vương. Vì thế Hùng Việt Vương, Tuân Lang.  đời thứ 13 Hạ Hùng Vương khốn đốn trước sự khôn ngoan của Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang. Mà không cách gì lấy lại Bắc Văn Lang được.

Cha Con Doãn Thường có nguồn gốc Ông Cha từ Phương Bắc di cư đến đất Cối Kê Bắc Văn Lang sanh sống trải qua 30 đời. Đến đời Doãn Thường thời dòng họ Vũ nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng Việt Vương, không phải dòng dõi Vua Hùng. Bắc Văn Lang chính là nước Xích Quỷ chín đời Kinh Dương Vương nối tiếp nhau trị quốc một đất nước giàu có không những giàu có về vàng bạc ngọc ngà châu báu, mà giàu có về lương thực nhất là văn minh lúa nước. Cũng vì sự giàu có nầy mà luôn gặp phải mối họa về xâm lược của các thế lực ngoại xâm. Cũng như những tay lòng đầy dã tâm tham lam nổi lên chiếm lấy Bắc Văn lang  nước Xích Quỷ làm của riêng cho mình như Cha Con Doãn Thường biến Bắc Văn Lang  thành một thuộc địa Việt Trung Nguyên, sau nầy Việt Trung Nguyên chuyển đổi thành Trung Quốc.

Vì Sao Bắc Văn Lang trở thành Việt Trung Nguyên ?
Là vì cha con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng Vương ở giữa. Nam có Hùng Vương. Bắc có Chu Vương. Giữa có Việt Vương. Kể từ khi Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm toàn bộ Bắc Văn Lang, thời danh từ thuộc địa Việt Trung Nguyên mới ra đời. Từ đó Bắc Văn Lang dần dần biến mất thay thế danh từ Trung Nguyên. Bắc Văn Lang không còn nữa. Chỉ nghe đến danh từ Trung Nguyên mà thôi. Bắc Văn Lang vốn là nước Xích Quỷ giàu có trù phú vô cùng dân số lại đông lên nhanh chóng không có nơi nào sánh kiệp. Là do dân  Phương Bắc di cư đến ở vào các thời kỳ Nhà Hạ, Nhà Thương, Nhà Ân, Nhà Chu. Phương Bắc không ổn định như Phương Nam Văn Lang chiến tranh loạn lạc truyền miên. Dân chúng lánh nạn chiến tranh di cư đến Bắc Văn Lang sanh sống đông vô số đây chính là cơ hội thuận lợi cho Cha Con Doãn Thường có nguồn gốc Phương Bắc nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang.

Hùng Việt Vương, Tuân Lang, rất khó tiêu diệt được vì Cha Con Doãn Thường quá khôn khéo biết dùng hình ảnh Quốc Tổ Hùng Vương làm bức bình phong che chắn cho sự dã tâm nổi lên chiếm lấy Bắc Lang xưng Việt Vương. Cha Con Doãn Thường trở thành dân tộc Văn Lang Bách Việt, trải qua nhiều đời. Nên Hùng Việt Vương, Tuân Lang không thể liệt Cha Con Doãn Thường là giặc ngoại xâm được. Mà chỉ coi Cha Con Doãn Thường là quân phản loạn. Trong khi phần lớn dân Bắc Văn Lang đồng tình ủng hộ cuộc nổi dậy cha Con Doãn Thường. Vì cho Cha Con Doãn Thường là dòng giỏi các Vua Hùng tái sanh chấn hưng lại nước Văn Lang xóa bỏ độc tài độc trị cũng như tham quan ô loại đem lại sự công bằng bình đẳng cho muôn dân, như thời Quốc Tổ dựng nước.

Nên Hùng Việt Vương, Tuân Lang khó mà đánh bại được. Chỉ còn một cách là Nam Bắc phân tranh mà thôi cũng từ đây dân tộc Bách Việt Văn Lang nội chiến đầu rơi máu đổ nồi da nấu thịt Nam - Bắc phân tranh vô cùng khốc liệt. Loài ác quỉ chưa vì thế mà dừng tay tiếp tục hảm hại dân tộc Văn Lang con cháu Tiên Rồng hơn hai nghìn năm.

Ở vào thời điểm nầy Phương Nam Hùng Vương. Phương Bắc Nhà Chu. Không khác gì nhau. Duy trì chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo. Có nghĩa Vua nghe theo Triều Thần. Làm Theo Triều Thần. Cũng cố sự Độc Tài Độc Trị. Cha Con Doãn Thường khôn ngoan hiểu rõ sự thống khổ của dân dưới thể chế Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị của chũ nghĩa Phong Kiến Thấn Giáo. đã trải qua hàng nghìn nghìn năm. Cha Con Doãn Thường nghiêng cứu rất kỷ về thời đại Hùng Vương  dựa trên cơ sở nào mà kéo dài sự độc lập lâu như vậy. Và đã phát hiện sự kéo dài sự Độc Lập đó. Không phải dựa trên cơ sở Phong Kiến Thần giáo nghe theo triều Thần, lấy cơ sở Triều Thần trị quốc. Mà là có một nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP rõ ràng. Vua, Quan, Dân đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đó. Tức là nền Quốc Đạo Dân Tộc ai cũng như ai Bình Đẳng, Xã Hội Công Bằng Dân Chủ Văn Minh. Một nhà nước lấy Dân làm Gốc, Dân Chủ: Dân có quyền, khác với thể chế Phong Kiến Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Thể chế của sự xin cho. Mà là Nhà nước của Dân do Dân và vì Dân. Như thời Quốc Tổ Vua Hùng dựng lên Nhà Nước Văn Lang. Nhưng Cha Con Doãn Thường lại không hiểu một điều Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng lên Nước Văn Lang rộng lớn hùng mạnh. Không phải dựa trên chiến tranh gươm đao giáo mác. Tàn sát lẫn nhau mạnh được yếu thua. Thắng là Vua, thua là Giặc xem đi xét lại giặc với Vua cũng chỉ là một thứ. Mà là dựng nước Văn Lang rộng lớn hùng mạnh dựa trên Quền Con Người Công Bằng Bình Đẳng Văn Hóa Cội Nguồn trở thành nền Quốc Đạo dân tộc thịnh trị 2701 năm. Văn Hóa  Mặt Trời  Chánh Đẳng Chánh Giác. Văn Hóa Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng. Văn Hóa Công Bằng, Bình Đẳng, Tự Do Dân quyền văn minh. Vua TỐI CAO  của Nước Văn Lang không phải là người khai lên Nước Văn Lang, Mà chính là nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. Nền quốc Đạo Dân Tộc VUA, QUAN, DÂN đều tôn thờ. Đây là điều bí mật kéo dài Độc Lập của Nước Văn Lang. Cha Con Doãn Thường không thể nào với tới nổi. Những bí mật cao siêu như vậy. Cứ Nghĩ Vua là trên hết, Mà không hiểu có một thứ trên cả Vua. Đó là Thiên Luật Vũ Trụ. Cũng Chính là Thiên Ý Cha Trời, cũng chính là Lương Tâm con người, hiện thân HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP mà Quốc Tổ Vua Hùng dùng nó để khai dựng lập lên Nước Văn Lang. Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng lên nước Văn Lang không phải bằng vũ lực thắng là Vua thua cho là giặc. Mà bằng con đường Văn Hóa Cội nguồn cũng chính là nền Hiến Pháp nền Quốc Đạo dân tộc. Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác tối cao Vũ Trụ. Văn Hóa mặt trời trí tuệ soi sáng cho Bách Việt Văn Lang. Mất văn Hóa Cội Nguồn thời dân tộc Văn Lang cũng theo đó mà tan rã. Bóng u minh trùm xuống chiến tranh loạn lạc triền miên. Yêu Tinh Quỉ dữ đầu thai làm người chuyển xây tình thế tàn hại con người nói chung dân tộc văn Lang con cháu Tiên Rồng lạc vào con đường ác đạo hầu hết sa đọa xuống các tần Địa Phủ. Và cho đến khi nào dân tộc Việt Nam sắp đi vào đại họa diệt vong mất nước thời anh linh Quốc Tổ Vua Hùng sẽ xuất hiện cứu nguy dân tộc Việt Nam tiêu diệt ba con chúa quỉ không cho chúng ngự trị hình chữ S Địa Long Vũ Trụ tức là nước Việt Nam ngày nay.
**************


PHẦN 2

Ông Bà Cha Con Doãn Thường khởi nguồn từ dòng dõi Vua Vũ. Con thứ hai của Vua Thiếu Khang đời Nhà Hạ. Phương Bắc. Đến đời Vua Kiệt Nhà Hạ. Vua Kiệt đắm say tửu sắc, lại bất trí, không biết dùng người tài. Nghe lời dua mị của nịnh thần. Chinh phạt các nước. Vua Vũ bị Vua Kiệt Nhà Hạ tri sát. Vua Vũ dẫn gia quyến vợ con, người thân cũng như các quan tướng có trên cả trăm người trốn vào Phương Nam giả làm dân thường đến Bắc Văn Lang Sanh Sống rải rác nhiều nhất là ở đất Cối Kê. Vua Vũ đến ở Bắc Văn Lang đất Cối Kê, mang theo vàng bạc châu báu nhiều vô số kể. Nên Vua Vũ mua rất nhiều rộng đất trở nên giàu có không khác gì những người giàu có nhất Bắc Văn Lang. Không những thế Vua Vũ còn giúp đở những các quan tướng đi theo mình ở rãi rác khắp đất bắc Văn Lang cũng trở nên giàu có. Nhờ sự giàu có chỉ nội trong đời Vua Vũ đã nhập tịch dòng họ con cháu thành dân Bắc Văn Lang chính thống. Theo số đông dân Lạc Việt - Âu Việt, Vua Vũ truyền bá những người đi theo mình, cắt tóc, xăm mình, trở thành  dân Âu, dân Việt. Nhưng không sống theo phong tục tập quán của người Âu Việt, Lạc Việt. Mà di trì lối sống dung hòa Bách Việt lối sống hòa hợp lôi kéo có sự mưu đồ của riêng mình. Lối sống bí mật hình lên nghiệp Vương trong tương lai về sau trong các thời Con Cháu.

Trong thời điểm ấy ở Phương Bắc Thành Thang thời nhà Hạ là người nhân đức trung hậu. Nên các nhân tài theo về rất đông. Còn Vua Kiệt thời hoang dâm vô độ, độc ác vô cùng phải nói là mất hết nhân tính con người. Tàn Sát các nước, giết hại trung thần. Bị Thành Thang đánh đổ lập lên Nhà Thương. Vu Vũ không muốn trở về đất Bắc vì thấy Bắc Văn Lang đất Giao Chỉ trù phú giàu có vô cùng có thể làm nên nghiệp bá bằng nuôi mộng cho đời sau.

Sao gọi là nuôi mộng cho đời sau  ?
Có nghĩa là di trì dòng tộc theo Văn Hóa trung hòa hơi nghiêng về phương Bắc. Hàng năm đều tổ chức hội đồng hương, luôn giúp đở người Phương Bắc đi cư đến Bắc Văn Lang để ở. Có nghĩa là nuôi lớn cái gốc tự trị cũng cố thế lực Xã Hội, cho đến khi hội tụ đủ thời cơ thời  thời nổi  dậy Xưng Vương.
Vua Vũ cùng những quan tướng trung thần đi theo Vua Vũ đến nơi đất mới Bắc Văn Lang người nào người nấy trở nên giàu có. Không kém gì người giàu có ở bản địa dân chính gốc Bắc Văn  Lang. Đến thời thứ 20 con cháu Vua Vũ có người đã làm đến Quan Trị Huyện. Đến đời thứ 30 thời con cháu Vua Vũ phần lớn là Quan Tri Huyện, có người làm đến Quan Tri Phủ. Các Con Cháu các Quan Tướng theo Vua Vũ phần nhiều là có địa vị Xã hội ở khắp đất Bắc Văn Lang và chỉ còn hội đủ thời cơ thời nổi lên xưng Vương Xưng Bá.

Đến thời thức 31 thời con cháu của Vua Vũ là Doãn Thường, làm đến chức Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu. Sông Lạc. Thấy tình thế Bắc Văn Lang mất gốc Văn Hóa Cội Nguồn, Nền Quốc Đạo không còn. Nhà nước Văn Lang trở thành nhà nước Phong Kiến Thần Giáo. Nhà nước của sự Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị, Quan chức nhà nước Văn Lang phần lớn là quan lạc Cội Lạc Nguồn chỉ biết cũng cố quyền lực không chăm lo mấy đến dân trở thành tham quan nổi lên khắp nước. Nhất là Bắc Văn Lang, tham Quan không những đắm say tửu sắc. Chỉ biết vàng bạc châu báu của cải vật chất. Không những thế trở thành mê tín dị đoan chạy theo Văn Hóa Phương Bắc. Chỉ biết Quyền Lực, Tham ô hối lộ, dẫn đến làm hại dân hại nước. Nhất là Thể Chế Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị càng ngày càng hà khắc của các vương quan tha hóa. Bách Việt Bắc Văn Lang dân chúng chán ghét Vương Quan nhà nước Văn Lang vô cùng. Không trông mong gì nhà nước Văn Lang chỉ biết nghe theo dua nịnh mơ ước có sự thay đổi, chỉ cần có một tia lửa thương dân nổi lên, thời dân ủng hộ ngay, đây chính là cơ hội cho Con Cháu Vua Vũ. Doãn Thường nổi lên xưng Vương.

Bắc Văn Lang ở vào thời kỳ nầy như quả mít chín mùi của sự bùng nổ chiến tranh. Chỉ cần một tia lửa đấu tranh nổi lên đêm lại quyền lợi cho dân tức thời bùng cháy chiến tranh ngay, không cách gì dập tắc được. Nhất là Văn Hóa Cội Nguồn đã mất, Non sông Tổ Quốc Văn Lang bao trùm màng u minh. Sự đoàn kết của dân tộc  không còn. Một dân tộc mất đi nguồn gốc truyền thống anh linh, đương nhiên dân tộc Văn Lang phải héo cành rũ ngọn. Cội Nguồn dòng nước truyền thống không còn đương nhiên là lòng dân đã cạn, không còn nghĩ gì đến non sông tổ quốc nữa. Mạnh ai nấy đi theo chí hướng riêng. Tất cả phần đông đều rơi vào con đường ác đạo. Có thể nói là phản bội lại non sông Tổ Quốc.

Anh hùng lạc đạo không biết đâu là đúng sai nữa, cảnh nồi da nấu thịt diễn ra. Giết hại nhau để rồi lên quan lên tướng. Lấy sự chém giết nhau cho đó là vinh quan vinh dự Thiên Đàng mất lối Địa Ngục rộng mở. Thời kỳ như vậy gọi là thời kỳ mạc pháp. Chiến Tranh loạn lạc truyền miên. Hận thù chồng chất oán trả oán, thù trả thù chém giết lẫn nhau không biết bao giờ chấm dứt. Một dân tộc mất Cội mất Nguồn  khó mà tiến  hóa để vương lên. Con Đường Đại Lộ Công Bằng Bình Đẳng Dân Chủ Văn Minh không còn, thay vào đó là con đường Phong Kiến Thần Giáo bảo thủ Độc Tài Độc Trị. Làm cho cuộc sống không tiến hóa được, dẫn đến đói nghèo lạc hậu. Người dân như sống trong một nhà tù lớn. Khác vọng tự do. Cha con Doãn Thường hiểu rõ điều nầy tạo lên bánh vẽ công bằng tự do, tất cả quyền lợi đêm về cho dân tuy rằng chỉ là những lời lừa phỉnh không thật. Nhưng hiệu quả vô cùng dân chúng  tin theo nghe theo làm theo. Cha Con  Doãn Thường dựa vào phần lớn dân chúng ủng hộ đồng tình góp công gốp sức làm lên một cuộc cách mạng long trời lở đất. Chiếm lấy Bắc Văn Lang phản bội lại thời đại cuối các Vua Hùng. Theo như những gì Quốc Tổ dạy: Sự Sống của một dân tộc Văn Minh là sự sống có gốc của dân tộc đó.  Sự sống mất gốc dân tộc là sự sống chết, nguy cơ trùng trùng. Nô lệ là chuyện không sao tránh khỏi dẫn đến mất luôn đất nước là chuyện không sớm thì chiều. Dân tộc Văn Lang cũng bỡi gì mất đi Văn Hóa Cội Nguồn dẫn đến không biết bao nhiêu là tai hại một đất nước Văn Lang rộng lớn nếu mất đi nền Quốc Đạo dân tộc thời khó mà đoàn kết được Bách Việt. Dẫn đến mất đi Bắc Văn Lang. Rồi đến Trung Văn Lang. Chỉ còn lại Nam Văn Lang. Nếu còn tiếp tục không khôi phục lại Văn Hóa cội Nguồn. Truyền thống dựng nước Ông Cha có hơn năm nghìn năm văn hiến thời Nam Văn Lang hình chữ S nước Việt Nam cũng không thể nào giữ nổi bị giặc phương Bắc nuốt trọn.

Cha con Doãn Thường mọc ra nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang cải đổi thành Việt Trung Nguyên. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn dưng hai tay cho người Phương Bắc. Ở vào thời Chu Nguyên Vương nhà Chu. Chu Nguyên Vương phong cho Câu Tiễn làm bá chủ ở Phương Đông. Câu Tiễn cuối đầu vân mệnh.
Gương còn đó sờ sờ trước mắt
Quên Cội Nguồn khó thoát tai ương
Hỡi Việt Nam con cháu Rồng Tiên
Gương lịch sử đừng quên luôn nhớ
Về Cội Nguồn dựng xây truyền thống
Đâm lộc cành kết quả sai hoa
Theo con đường Truyền Thống Ông Cha
Khôi phục lại hào hùng dân tộc
Khôi phục lại văn minh Độc Lập
Nền Quốc Đạo như vầng Nhật Nguyệt
Mãi sáng soi con cháu Việt Nam.

Văn hóa Phong Kiến Thần Giáo Độc quyền, Độc Tài, Độc Trị không phải bây giờ mới có. Mà đã ra đời hơn 10 nghìn năm trước công nguyên tồn tại mãi ở Phương Bắc. Văn hóa của sự bành trướng tranh hùng tranh bá, chém giết lẫn nhau. Thôn tính lẫn nhau. Vô cùng tàn khốc. Nếu ai thông suốt về sử ở Phương Bắc thời đều cảm nhận được điều nầy, sự bành trướng tranh hùng tranh bá thôn tính lẫn nhau. Ăn nuốt lẫn nhau chém giết lẫn nhau thủ đoạn tàn độc, thứ Văn Hóa nầy lan tràn đến đâu  thời chiến tranh tàn khốc đến đó. Sự đêm lại kết quả cho Văn Hóa nầy là hận thù. Thủ đoạn, tàn độc. Nếu bị nhiễm nặng có thể nói không còn lương tri mất đi nhân tính con người. Không như Văn Hóa Cội Nguồn văn Hóa Chính Nghĩa làm cho nhân loại con người Hiễn Thánh, Thánh Thiện. Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa trí tuệ. Văn Hóa của sự  đoàn kết, hòa bình, thịnh vượng. Có thể nói Văn Hóa Cội Nguồn Chính Nghĩa là Văn Hóa mùa xuân trăm hoa đua nở. Văn Hóa mở ra cánh cửa Thiên Đàng cực lạc. Văn Hóa Phong kiến Thần Giáo Độc Tài Độc trị tồn tại mạnh ở Phương Bắc gieo rét tranh hùng tranh bá thứ Văn Hóa Mùa Đông tàn phá văn minh tinh thần làm cho con người càng trở nên ác độc. Độc tâm độc tánh hiểm ác vô cùng. Nói đến Văn Hóa Phong kiến Thần Giáo là nói đến cái độc nói chung là không gì không độc. Hiểm độc, ác độc, tàn độc, tuy có nhiều Thánh nhân ra đời. Như Khổng Tử làm giảm bớt đi cái độc của Phong Kiến Thần Giáo, Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Đưa con người đến Thánh Thiện nhưng xem xa như hạt Muối  bỏ xuống ao hồ. Không mấy kết quả. Mà còn trở thành một thứ vũ khí để cho các nhà Độc Tài độc Trị Phương Bắc lợi dụng làm chính trị. Đầu độc làm hại các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam. Rơi vào cảnh nô lệ.

Quốc Tổ Hùng Vương khai dựng lên nhà nước Văn Lang nhà nước của dân do dân và vì Dân nhà nước tam quyền phân lập không có sự độc tài độc trị nhà nước của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp. Nhà nước Pháp quyền. Nhà nước của sự công bằng bình đẳng. Sự kéo dài độc lập thời đại Hùng vương 2701 năm Thượng Hùng Vương 23 đời. Hạ Hùng Vương 18 đời tổng cọng thời đại Hùng Vương có 41 đời. Văn Hóa Cội Nguồn không những là Văn Hóa sáng soi Đạo đức con người, Đạo đức xã hội. Mà còn là kim chỉ nam cho sự phát triển xã hội văn hóa Cội Nguồn hiển linh trở lại sáng soi dân tộc Việt Nam, có thể nói dân tộc Việt đã đến thời kỳ chuyển sang giai đoạn  thời đại Thánh Đức.
Văn Lang chính sử sách còn ghi
Bách việt anh linh có lạ gì
Đài linh vó ngựa Nam - Trung - Bắc
Cội Nguồn Văn hóa một đề thi
Văn Lang Bách việt
Tàn sát lẫn nhau
Nguyên cớ vì đâu
Cội Nguồn biến mất
Đi vào nội chiến
Trăm khổ nghìn sầu
Những ai quên mất Cội Nguồn
Lạc vào ác đạo hết đường hồi quy
Thiên đàng đã mất lối đi
Muôn đời sa đọa âm ty nghìn trùng.
***************


PHẦN 3

Ở vào thời Phong Kiến Thần Giáo thời Nhà Chu. Chu Vũ Vương. Chu Thành Vương. Chu Mục Vương. Chu Di Vương. Đến thời Chu Lệ Vương thời nội triều Phong Kiến Thần Giáo  con cháu Nhà Chu tranh giành quyền lực. Anh Em chém giết lẫn nhau, triều chính hổn loạn. Chu Lệ Vương chạy trốn sang đất Trệ. Các Quần Thần Phong Kiến Thần Giáo Nhà Chu trong cảnh triều ca không Vương. Bằng hợp nhau thi hành chính sự Cọng Hòa điều hành đất nước Phương Bắc Nhà Chu đi đến hổn loạn. Các Trấn Chư Hầu nổi lên tranh bá lẫn nhau. Thôn tính lẫn nhau chiến tranh loạn lạc. Phong Kiến Thần Giáo Quần Thần Nhà Chu, lập Chu Tuyên Vương chỉnh đốn lại Nhà Chu. Khi ấy ở nước Tề. Tề Lệ Công được lập. Lệ Công vô Cùng bạo ngược. Nghe lời xàm tấu nịnh hót tham quan ô loại. Nội chính thời giết Trung Thần. Ngoại chính thời chinh phạt các nước làm cho Phương Bắc chiến tranh thôn tính lẫn nhau ăn nuốt lẫn nhau dữ dội. Mạnh được yếu thua thắng là Vua. Thua là giặc. Xem đi xét lại giặc với Vua cũng chẳng khác gì nhau. Ai có nhiều nhân tài  biết đội lớp nhân nghĩa. Mưu mô xảo quyệt hơn thời thắng. Xưng Vua, Xưng Chúa. Xưng Bá. Không như phương Nam nước Văn Lang dân chúng sống theo Thánh Đức Thánh Giáo. Sống Theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc thái bình an lạc. Kéo dài hơn mấy nghìn năm ( đều đáng chú ý ở đây : Thánh Đức Thánh Giáo, khác với Phong Kiến Thần Giáo! Là ở chỗ Thánh Đức Thánh Giáo. Vua, Quan, Dân, đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Nền Quốc Đạo dân tộc. Còn Phong Kiến Thần Giáo là Triều Thần bao hàm cả Trung Thần, Nịnh Thần tâu lên Vua. Vua nghe theo đó mà hành sự. Mới có cảnh Nịnh Thần hảm hại Trung Thần. Trung Thần can gián Vua Làm Bậy liền bị xữ tử. Còn Thánh Đức Thánh Giáo không phải như thế. Tất cả Vua, Quan, Dân đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Bằng Bình Đẳng Văn Minh. Chỉ bỏ tù hoặc xử tử những người có tội vi phạm luật pháp. Dù cho đó là Vương, Quan. Những người vi phạm Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp thời bị xử theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công đạo của nhà nước Vương, Quan, Dân phạm tội đều bị xét xử Công bằng Bình Đẳng trước Pháp Luật như nhau.

Phương Bắc Nhà Chu theo chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo độc tài độc trị, khác Phương Nam Thánh Đức Thánh Giáo thời Hùng Vương đa nguyên đa sắc tộc Bách Việt Tộc Văn Lang công bằng bình đẳng dân chủ tự do. Vì thế Phương Bắc không thể nào sánh kịp chiến tranh loạn lạc. Các nước thôn tính lẫn nhau  tranh giành dân chúng. Tranh Giành đất đai quyền lực, làm cho dân chúng khốn đốn, thảm cảnh đói rét chết chóc xảy ra khắp nơi không ít dân chúng trốn chạy di cư vào Nam tức là Bắc Văn Lang. Có lúc chỉ trong vòng có mấy ngày lên đến cả vạn  người. Bắc Văn Lang vì thế dân số tăng lên nhanh chóng không sao đếm xuể. Thậm Chí các Châu Quận, Huyện, không còn kiểm soát được nữa. Đành để cho dân chúng Phương Bắc tràn qua di cư sống vô gia cư khắp trên Bắc Văn Lang. Nước Tề đến thời Tề Hoàng Công  Phong Kiến Thần Giáo vô cùng hưng thịnh Phương Bắc tranh bá khóc liệt hơn nữa Tề Hoàng Công  nhờ có các bậc Triều Thần tài giỏi  không những  thu phục các nước  mà còn biết trọng dụng nhân tài. Mộng bành trướng xưng hùng xưng bá lúc nào cũng trổi dậy mạnh mẻ Tề Hoàng Công nhờ có Thấp Bằng, Cao Hề, Bão Thúc Nha cùng Quảng Trọng bày kế hay, mưu lược giỏi đánh nước Kỷ, nước Lỗ, nướcĐàm. Cứu nước Yên, đánh nước Vệ, nước Thái, Nước Sở, Nước Trần. Nước Tấn. Tề Hoàng Công phía Nam chinh phạt Nam đến đất Thiệu Lăng, tây Nam đến Hùng Sơn. Ở phía Bắc đánh Sơn Nhung, Ly Chi, Cô Trúc. Phía Tây đánh Đại Hạ đến núi Thái Hàng, núi Ty Nhĩ hơn cả trăm nước không ai dám chống lại Tề Hoàng Công. Cuộc chiến chinh phạt nước nầy, thu phục nước kia. Xóa sổ nước nọ, cứu nước nầy, giúp nước kia. Có thể nói lúc bấy giờ Phương Bắc là bãi chiến trường. Dân chúng Phương Bắc càng bị chiến tranh bao nhiêu, thời càng di cư vào Nam Bắc Văn Lang càng nhiều bấy nhiêu. Không những dân chúng mà còn có cả những Vua, những Tướng đang bị tri sát. Cùng thời ấy đến thời Triệu Xuyên nước Tấn giết Vua của mình là Di Cao, Tấn Linh Công. Triệu Thuẫn cũng có phần Triệu Thuẫn có công lập Tấn Thành Công lên thay thế. Nên Tấn Thành Công bỏ qua còn phong cho con cháu Họ Triệu làm quan lớn. Đến thời Tấn Cảnh Công, Đồ Ngạn Giả lật ngược tình thế kể tội Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn mưu sát Di Cao, Tấn Linh Công ở tại Đào Viên. Dòng Họ Triệu bị tru di cửu tộc. Quan Binh truy sát con cháu Triệu Xuyên, Triệu Thuẫn chết không biết bao nhiêu mà kể. Số còn sống  thời trốn chạy khắp nơi có người trốn sang nước Tống. Một số trốn vào Nam. Tức là Bắc Văn Lang sanh sống. Trải Qua nhiều đời được sự giúp đở con cháu của Vua Vũ. Dòng họ Triệu trở nên hưng thịnh giàu sang trở thành quyền thế  trong đó có Triệu Tế Gia. Khi Cha Con Doãn Thường Con Cháu Vua Vũ ra đời như một anh hùng nổi dậy đứng lên chiếm lấy Bắc Văn Lang, cải đổi thành nước Việt Trung Nguyên thời con cháu Họ Triệu làm đến Tướng Soái thống lãnh đại quân Trung Nguyên chống trả lại quân Văn Lang.

Thời hậu Hùng Vương, từ thời thứ 13 hậu Hùng Vương trở xuống đất nước Văn Lang trở thành nội chiến chia cắt  Bắc Nam. Bắc Văn Lang đã bị Cha Con Doãn Thường nổi dậy chiếm lấy lập lên đất nước Việt Trung Nguyên. Với tình thế lúc bấy giờ nước Văn Lang Văn Hóa Cội Nguồn mai một thất truyền biến mất. Nền quốc đạo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính không còn. Thay vào đó là niền Phong Kiến Thần Giáo do triều Thần đề xướng giúp Vua. Theo thể chế Độc quyền độc tài độc trị không còn Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nữa Mà nghe theo Triều Thần. Vua  anh minh  sáng suốt thời còn khá  còn Vua hôn quân vô đạo lại nghe Nịnh Thần. Thời tai hại nước nhà không sao xiết kể. Có thể nói ở vào giai đoạn từ thời Hùng Việt Vương trở xuống không khác gì nền Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo Phương Bắc Độc Tài, Độc Trị. Dưới thể chế Độc Tài, Độc Trị Phong Kiến Thần Giáo xin cho nầy. Càng làm cho đất nước Văn Lang suy tàn. Tham quan mọc ra như nấm. Chỉ biết vơ vét của dân làm giàu, mua quan bán chức không kẻ gì đến non sông Tổ Quốc. Lòng dân càng ngày càng oán hận. Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo là Văn Hóa độc hại, Văn Hóa của sự tranh bá tranh hùng mạnh được yếu thua, thắng là vua thua là giặc Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo làm cho đất nước Văn Lang suy yếu dẫn đến chiến tranh loạn lạc không khác gì Phương Bắc. Sự độc hại của Phong Kiến Thần Giáo là mê tín dị đoan, cầu cạnh Thần Linh. Xin Xăm bói quẻ. Lôi kéo lòng người đi theo con đường Tà Giáo. Thổi bùng lòng tham tranh danh đoạt lợi bất chấp mọi thủ đoạn thôn tính tiêu diệt lẫn nhau. Phong Kiến Thần Giáo khác với Phong Kiến Thánh Giáo. Là xa con đường Chính nghĩa Công Bằng Bình Đẳng. Không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công đạo Chánh Nghĩa chân chính xã hội. Mà chỉ theo thể chế độc tài độc trị. Nước Văn Lang không còn nền Quốc Đạo dân tộc. Có nghĩa là Văn Hóa Cội Nguồn biến mất Tự Do Dân Quyền Văn Minh thời dựng nước không còn. Thay vào đó là nhà nước Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị. ( Chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo là chủ nghĩa cạnh tranh hủy diệt khốc liệt. Mạnh được Yếu thua. Thắng là Vua thua là Giặc. Xem đi xét lại Giặc với Vua cũng chỉ là một thứ ) Theo quy luật tự nhiên của Tạo Hóa. Nơi nào có áp bức thời nơi đó có đấu tranh. Nơi nào chạy theo Thần Quyền thời nơi đó lòng dân hổn loạn Cha Con Doãn Thường đã hiểu rỏ tình thế xã hội thời bấy giờ cơ hội thuận lợi nổi dậy chiếm lấy lòng dân. Chiếm lấy Bắc Văn Lang. Đất Nước Văn Lang liền rơi vào cảnh chiến tranh nội chiến tàn khốc. Đồng Bào Bách Việt Văn Lang con cháu Tiên Rồng rơi vào cảnh nồi da nấu thịt tàn sát lẫn nhau. Văn Hóa Cội Nguồn nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chính nghĩa Quốc Tổ Hùng Vương dùng nó dựng nước, giử nước, trị quốc kéo dài độc lập 2701 năm  là vần Thái Dương của non sông Tổ Quốc. Soi sáng cho dân tộc Văn Lang Thái Bình thịnh vượng An Lạc yên vui. Đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp dân tộc là đánh mất tất cả. Dân Tộc Văn Lang rơi vào cảnh tối tăm. Non Sông Tổ Quốc mất gốc. Bách Việt Văn Lang lạc Cội lạc Nguồn Dân tộc Văn Lang liền tan rã sự đoàn kết chia bè rẽ phái nổi dậy xưng bá xưng hùng chém giết lẫn nhau. Không khác gì Phương Bắc chiến tranh hổn loạn dân chúng không lúc nào yên. Một dân tộc mà nguồn gốc dựng nước, giữ nước mù mờ. Không rõ ràng, sự thừa kế không có thời rơi vào con đường ác Đạo hổn loạn tối tăm ngay. Bằng chứng cụ thể nền Văn Hiến Văn Hóa dựng nước không còn. Nước Văn Lang liền đi vào suy yếu. Dân Chúng Bắc Văn Lang nổi loạn. Cha Con Doãn Thường nổi dậy chiếm lấy bắc Văn Lang. Đất nước Văn Lang liền bị chia cắt. Bách Việt Văn Lang rơi vào nội chiến. Kết quả của sự nội chiến là đưa dân tộc Văn Lang đến con đường nô lệ ngoại ban. Mất lần đất đai chiến tranh truyền miên khốn khổ  mấy nghìn năm.
Cây mất gốc héo cành rũ ngọn
Nước mất nguồn nước cạn nước khô
Sử kinh  chép lại sáng soi
Mất Nguồn lạc Cội  nát tan cơ đồ
Chiến tranh lạc hậu khốn cùng
Lệ nô, nô lệ hết còn tự do.
**************


PHẦN 4
                     
Ở vào thời gần cuối thời Hùng Việt Vương : Tuân Lang. Đời thứ 13 Hạ Hùng Vương 569 đến 506 trước công nguyên uy lực Vua Hùng suy yếu là do Văn Hóa Cội Nguồn  đã biến mất Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính không còn cũng ra đi. Nền Văn Minh Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng. Quyền con người lấy dân làm gốc không còn. Dần dần thay vào đó là nền Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc trị. Theo thể chế xin cho. Bóng đêm bao phủ trùm xuống nước Văn Lang tham quan mọc ra như nấm. Mua quan, bán chức xảy ra thường xuyên. Nhất là Bắc Văn Lang sự mua quan bán tước lại càng lộ liểu mua quan bán tước công khai. Lại thêm tình hình lúc bấy giờ bất ổn vì nạn di cư dân chúng Phương Bắc lánh nạn chạy giặc vào Bắc Văn Lang mỗi ngày mỗi đông. Đến nổi không còn kiểm soát được nữa. Khi ấy ở Đất Cối Kê, Lạc Giang Châu, nơi con sông Lạc, sông Kinh. Có một gia đình  rất đông con cháu, giàu có nhất Lạc Giang Châu có tới trăm thương đoàn buôn bán giao dịch hầu khắp Trung - Bắc Văn Lang. Vị giàu có đó tên là Việt Tế Gia. Ông là người tôn thờ Văn Hóa Phương Bắc Phong Kiến Thần Giáo. Tôn thờ thuật Xin Xăm, Bói Quẻ, Nhập Đồng, Nhập Bóng. Mê Tín dị đoan tôn thờ các loài Thần Thú. Việt tế Gia là dòng giõi Vua Vũ từ Phương Bắc thời Nhà Hạ di cư đến Đất Cối Kê để ở. Việt Tế Gia duy trì được gia phả dòng họ trên ba mươi đời. Nên hàng năm đến ngày giỗ tổ Vua Vũ. Không những các chi nhánh dòng họ, mà còn nhiều dòng họ khác liên quan đến Ông Tổ Vua Vũ  cũng đã đông đến lên hàng nghìn nghìn người. Ngoài Dòng Họ Vũ ra còn có Dòng Họ Triệu con cháu Triệu Tế Bá Gia đông vô cùng. Không ít con cháu các chi nhánh Dòng Họ Triệu làm đến Bố Chánh Đại Nhân Quan Huyện. Rải rác khắp Bắc Văn Lang. Thế lực Việt Tế Gia Họ Vũ ở vào thời điểm nầy phải nói là không ai dám đụng đến. Vì đại đa số con cái cháu chắt đang nắm chính quyền Từ Châu Bộ, đến Huyện, Xã. Không những thế mà còn Ông Trùm kinh tế Thương Gia khắp Bắc - Trung Văn Lang. Nên mọi sự biến động xảy ra trên nước Văn Lang đều hiểu rõ như trong lòng bàn tay. Nhất là Bắc Văn Lang.

Việt Tế Gia có rất nhiều bà Vợ. Nhưng Hồ Mị Nương là khôn lanh hơn cả trẻ đẹp hơn mấy bà vợ kia. Nên Việt Tế Gia nâng niu chiều chuộng hết mực. Hồ Mị Nương không thích ăn thịt mà thích ăn các loài cá lạ. Một hôm Hồ Mị Nương nghe nói dân chài bắt được con Thuồng Luồng Đất. Xẻ thịt đêm ra chợ bán. Nghe nói ăn thịt được Thuồng Luồng Đất hên lắm lại trị được bá bệnh nhất là bệnh khó có con. Liền cho người mua về thật nhiều phơ khô để dành mà ăn. Một hôm Hồ Mị Nương nằm mộng thấy một con quái thú Thuồng Luồng bốn chân đầu Sói mình Sấu  đuôi Rồng đến chụp Mị Nương. Mị Nương sợ quá ré lên trong lúc canh đêm, làm kinh động cả nhà. Việt Tế Gia hỏi Mị Nương kể lại giất chiêm bao ấy. Việt Tế Gia  lấy làm kinh sợ vì  Hồ Mị Nương thấy con quái thú trong giất chiêm bao chính là Con Quái Thú Thuồng Luồng Phòng Phong mà dòng họ Vũ đã thờ trong cổ miếu có hơn 30 đời. Không bao lâu Hồ Mị Nương mang thai rồi sanh ra một cậu con trai kháu kỉnh. Trong lúc sanh ra cậu bé trời đất nổi cơn thịnh nộ bất thường mưa gió nỗi lên ầm ầm cây cối ngã đổ chết chóc không biết bao nhiêu người. Với điềm lạ ấy nên Việt Tế Gia đặc tên cho con là Doãn Thường.

Doãn Thường lớn lên không thích xu thế giàu, mà thích làm Chính Trị. Điều nầy làm Việt Tế Gia đặc nhiều huy vọng vào Doãn Thường. Doãn Thường rất thông minh học một biết mười học đâu nhớ đó, ăn nói khôn khéo, có tài hùng biện nên rất được nhiều người nghe. Lại thêm có sức mạnh không ai bằng. Doãn Thường không đi theo còn đường làm giàu của Việt Tế Gia. Mà chỉ đi theo con đường Chính Trị. Thu thập võ nghiệp giao du học hỏi khắp nơi nhờ nhân duyên lớn Doãn Thường gặp được một đại Ma Đầu học được  Ma Đao tuyệt học Đao Pháp. Doãn Thường trở thành sát Thủ đệ nhất sát Đao không ai sánh được. Tuy Doãn Thường không đi theo con đường làm giàu của Việt Tế Gia. Nhưng tất cả mưu lược thủ đoạn trong kinh doanh thời Doãn Thường hơn hẳn Việt Tế Gia rất xa. Nên Việt Tế Gia rất hài lòng về việc nầy.

Doãn Thường thường nói với Việt Tế Gia không có kinh danh nào hơn là kinh doanh buôn quan bán tước. Không có cái lợi nào hơn là cái lợi gồm thâu thiên hạ làm thống lĩnh. iệt Tế Gia nghe Doãn Thường nói thế thời sửng sốt nói con muốn làm vua. Doãn Thường nói làm Vua, làm Chúa, làm Bá thời có gì hay. Chỉ có xưng Vương mới là thượng sách. Việt Tế Gia nghe Doãn Thường nói thế thời tái cả mặt không phải vì sợ. Mà vì nghe Doãn Thường có tư tưởng lớn quá. Ở vào thời điểm hiện tại chỉ có hai chúa Vương. Đó là Nam có Chúa Tể Hùng Vương. Bắc có Chúa Tể Chu Vương muốn trở thành một vị Chúa tể Chúa Vương nữa thời còn khó hơn lên trời. Có một hôm Việt Tế Gia nói. Doãn Thường theo con tình hình hiện tại con nghĩ Phương Nam có Chúa Tể Hùng Vương mạnh, hay Phương Bắc Chúa Tể Chu Vương mạnh. Doãn Thường nghe cha hỏi liền trả lời. Thế Lực Hùng Vương kéo dài hơn mấy nghìn năm, nay đã đến thời kỳ suy yếu. Nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đã thất truyền. Tham quan mọc lên như nấm làm cho dân than oán khắp nơi. Tự đánh mất lòng dân đồng nghĩa là báo hiệu đi vào sụp đổ. Hơn nữa văn hóa Cội Nguồn không còn  Đạo Đức suy đồi dẫn đến mê tín dị đoan không khác gì Phương Bắc. Khó mà đoàn kết được sức mạnh toàn dân tộc. Còn Phương Bắc Nhà Chu thời còn tệ hại hơn nữa. Chúa Vương nhà chu nền Phong Kiến Thần Giáo đã đến hồi cực thịnh. Vua Quan tửu sắc dâm loạn ăn chơi trác tán, chỉ biết quyền lực. Độc Tài Độc Trị tham lam tàn bạo nghe theo dua nịnh nay ngã theo nước nầy, mai ngã theo nước kia. Tề mạnh thời ngã theo Tề. Tấn mạnh thời ngã theo Tấn. Sở Mạnh thời ngã theo Sở. Làm cho Phương Bắc các nước xâu xé lẫn nhau. Chiến tranh triền miên dân chúng khốn khổ vô cùng. Tạo ra dòng người di cư vào Nam như nước lũ. Đây chính là cơ hội cho dòng dõi Vua Vũ Ta đầy đủ yếu tố phản loạn lại nhà nước Văn Lang tạo lên nghiệp Vương. Tình thế Bắc Văn Lang bây giờ vô cùng hổn độn không thể kiểm soát tình hình được nữa. Cướp bóc nổi lên khắp nơi Vương, Quan thời chỉ biết bê tha trong tửu sắc. Kẻ thì quá giàu người thời quá nghèo. Tuy chỉ là Bắc Văn Lang nhưng dân số đông vô cùng. Hai Phần là dân bản gốc, một phần là dân di cư từ Phương Bắc vào. Tuy hai phần dân bản gốc Văn Lang nhưng dân chúng phần đông cũng đã chán chê triều đại Hùng Vương không đêm lại lợi ích gì cho dân. Làm Vua mà chỉ nghe theo Nịnh Thần. Trung Thần luôn bị hảm hại, nhân tài vì thế mà không muốn ra giúp nước. Nhất là Bắc Văn Lang chỉ thấy bọn tham qua  sách nhiễu vơ vét của dân làm giàu cho bản thân. Không kể gì đến truyền thống anh linh dân tộc. Đi ngược lại lời dạy của Quốc Tổ Vua Hùng. Vì không còn Quốc Đạo nhà nước Văn lang. Sự mất gốc nầy dẫn đến tôn thờ Phong Kiến Thần Giáo không khác gì Văn Hóa Phương Bắc. Đây chính là cơ hội cho chúng ta làm nên nghiệp lớn. Chúng ta chỉ cần khôn khéo dựng Quốc Tổ Hùng Vương dậy. Trước thời làm bình phong che chắn cho chúng ta. Sau là dân chúng theo về, không nghi ngờ gì chúng ta cả chúng ta cứ nói là tôn thờ Quốc Tổ Vua Hùng, thời toàn thể dân chúng Bắc Văn Lang sẽ đi theo chúng ta. Nhưng thật ra chúng ta đi theo một hướng khác. Biến Bắc Văn Lang thành đất nước Trung Nguyên. Xưng Vương ở giữa. Việt Tế Gia nghe Doãn Thường đưa ra đường hướng khôn khéo như vậy thời khen rằng con quả là có mưu trí hơn người, nhưng lại hỏi làm thế nào mà thành nghiệp Vương nhanh chóng được?

Doãn Thường đáp thưa Cha: Đối với những người có chí lớn. Tất nhiên chẳng có gì là khó, chỉ là hiểu rõ Thiên Thời. Hiểu rõ  Địa Lợi. Và biết cách lấy lòng dân, dung hòa hết thảy các tần lớp Xã Hội. Lôi kéo các đại Môn Phái Võ Gia. Thu phục lợi dụng Tà Ma Ác Đạo. Mua Quan, bán tước. Đưa con cháu tiến sâu vào ngôi vị Chính Quyền nắm bắt mọi thông tin hằng ngày. Có tài tháo vát trăm mưu nghìn kế, chuyển xây tình thế có lợi lần về Mình, bất lợi lần về Địch. Suy đoán hành động đúng lúc. Biết làm cho người ta Mê Hoặc. Biết làm cho người ta Khiếp Sợ. Công Danh Lợi Lộc là thiên đàng của sự ham muốn. Vì mấy ai không ham danh, ham lợi. Tự Do là Thiên Đàng mơ ước của các tần lớp khốn khổ. Nhất là những giai cấp đang bị đàng áp, bóc lột, sách nhiễu, những tù nhân tội lỗi  những kẻ vô gia cư. Vì vậy chỉ cần có danh từ tự do là những giai cấp thống khổ ấy liều chết mà đi theo rồi. Dù đó chỉ là Bánh Vẽ. Dù biết rằng đó chỉ là bánh vẻ Tự Do nhưng cũng hiệu quả không sao tưởng tượng được. Cọng thêm lời ru Công Bằng, Bình Đẳng. Thời dân chúng khốn khổ như uống phải mật ngọt, ai là không  mơ ước ai mà không đi theo. Nhưng thật ra chỉ có nền Quốc Đạo Văn Hóa Cội Nguồn mới thật sự có nền Dân Chủ Tự Do, Công Bình Bình đẳng mà thôi, nhưng đã bị thất truyền không còn dấu vết nữa. Nhưng chúng ta chỉ cần chỉ cần có bánh vẽ lấy dân làm gốc cọng với khẩu hiệu Công Bằng Tự Do thời chúng ta đã thành công cướp lấy Bắc Văn Lang xưng Vương rồi hầu hết các tần lớp dân chúng ủng hộ đi theo chúng ta. Tuy biết đó chỉ là lời nói suông ngôn từ nhưng cũng có hiệu quả như thường dấy lên một phong trào tự trị không có một thế lực nào đánh bại nổi. Vì dễ cở nào không ai theo cũng chịu, nhưng việc khó đến đâu mà có dân chúng theo về thời dời núi lấp sông cũng dễ như trở bàn tay. Vì sao dựng dậy Quốc Tổ cũng như khẩu hiệu Công Bằng Bình Đẳng Tự Do lại hiệu quả như thế. Vì muốn chiếm lấy Bắc Văn Lang không thể không lợi dụng Quốc Tổ, vì chỉ có lợi dụng Quốc mới lôi kéo dân chúng đi theo mình phản lại nhà nước Văn Lang. Với khẩu hiệu Công Bằng, Bình Đẳng chính là thiên đàng mơ ước sự sống của tất cả tần lớp dân chúng. Nhất là dân chúng đang sống trong khốn cảnh độc tài độc trị của chủ nghĩa phong kiến Thần Giáo. Thử hỏi mấy ai trên thế gian nầy không ưa thích Tự Do Công Bằng Bình Đẳng. Nhưng Có vị Vương nào, vị Chúa nào đêm lại Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng đâu. Chỉ trừ Quốc Tổ Vua Hùng mà thôi. Mà chỉ thấy Độc Tài, Độc Trị muốn dân chết là chết, muốn dân sống là sống. Mạnh được yếu thua được là Vua thua là Giặc. Xem đi xét lại Vua với Gặc, Giặc với Vua nào có khác gì. Dân chúng mãi mãi không bao giờ có Tự Do. Không bao giờ có Công Bằng Bình Đẳng thật sự. Chỉ khi nào Quốc Tổ Hùng Vương sống dậy thời may ra mới có Tự Do Công Bằng Bình Đẳng thật sự. Nhưng điều đó sẽ không bao giờ có vì chết rồi có ai sống lại được đâu.

Chúng ta chỉ cần dựng dậy Quốc Tổ Vua Hùng có bánh vẽ Tự Do. Bánh vẽ Công Bằng Bình Đẳng thời được Thiên Hạ chiếm lấy Bắc Văn Lang dễ dàng. Nhưng giữ được Thiên Hạ thời khó vô cùng. Quốc Tổ Vua Hùng về trời đã mang theo bí mật về Nhân Quyền Dân Chủ, Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Nghe nói Vua Hùng chưa phải là tối cao của nước Văn Lang. Mà tối cao của Nước Văn Lang chính là Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp nền Quốc Đạo Dân Tộc. Nền Quốc Đạo Dân Tộc chính là Văn Hóa Cội Nguồn, chủ Nghĩa Đại Đồng. Quốc Tổ Vua Hùng dùng Văn Hóa Cội Nguồn dựng nước Văn Lang. Không dùng đến bạo lực mạnh được yếu thua, thắng là Vua thua cho là Giặc. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn chủ nghĩa Đại Đồng  Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Nhân Quyền  đã thất truyền không còn dấu vết gì nữa.

Quốc Tổ Vua Hùng gồm thâu Bách Tộc dựng lên Bách Việt Văn Lang theo phương pháp Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Có nghĩa Quốc Tổ Vua Hùng hàng phục Thiên Hạ khai dựng lên nước Văn Lang không phải bằng con đường bạo lực. Mạnh được yếu thua thắng là Vua thua là giặc. Mà bằng con đường Văn Hóa Cội Nguồn đêm lại thật sự Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng cho Xã Hội. Nên mới kéo dài Độc Lập lâu như thế. Nhưng phương pháp dựng nước ấy đã thất truyền rồi không còn dấu viết gì nữa.

Cha Con chúng ta tuy không có Văn Hóa Cội Nguồn nhưng nổi dậy chiếm lấy bắc Văn Lang không khó. Chỉ cần tạo lên Hiến pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp giả hiệu. Công Bằng, Bình Đẳng, Dân Chủ, Tự Do giả hiệu, thời coi như nghiệp Vương đã thành không ai có thể hiểu được sự cao thâm huyền diệu lừa dối nầy. Mà cứ tưởng Cha Con Ta tôn thờ Quốc Tổ, đêm lại sự Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng cho người dân Bách Việt văn Lang. Bách Việt Văn Lang sẽ đi theo chúng ta chống lại nhà nước Văn Lang. Sự lừa dối tinh vi nầy khó mà nhìn thấy. Nếu phát hiện nhìn thấy thời coi như mọi chuyện đã rồi. Với mưu đồ bất chính Cha Con Doãn Thường lúc nào cũng nói làm theo di chí Quốc Tổ Vua Hùng. Nhưng thật ra đó chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài che đậy dã tâm mưu mô xão quyệt của mình. Chân giả, giả chân không ai phân biệt nổi một mối họa của nước Văn Lang đã bùng lên, làm cho dân Văn Lang trở thành nồi da nấu thịt, Bách Việt Văn Lang Đồng Bào tàn sát lẫn nhau.

Cha Con Doãn Thường chỉ cần thực thi kế sách. Chiếm lĩnh Bắc Văn Lang một cách dễ dàng không đổ bao nhiêu giọt máu.Với Bánh Vẽ Dân Chủ Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng, những Thần chú  khẩu hiệu khôn khéo. Không có gì quý hơn Tự Do. Quý hơn Công Bằng Bình Đẳng. Quyền con người được bảo vệ. Quyền được sống. Quyền Tự Do Quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhà nước của Dân do dân vì dân. Dân chúng Bách Việt nghe mùi mẩn lao vào như những con thiêu thân. Cha con Doãn Thường còn phù phép những danh từ  nghe thật sướng tai, làm cho Bách Việt Bắc Văn Lang chết mê chết mệch. Tất cả là Do Dân. Tất cả là vì Dân. Tất cả là của Dân. Vương, Quan chỉ là công bộc  phục vụ cho Dân. Dân là Chủ. Dân có quyền quyết định tất cả. Vì Dân là cái gốc của Nhà Nước. Dân còn là Nhà Nước còn, Dân mất là Nhà Nước mất. Với những câu Thần Chú như thế Dân Chúng chỉ còn biết đi theo nghe theo mà thôi. Có thể nói Cha Con Doãn Thường đã hiểu được phần nào pháp thuật trị quốc của Quốc Tổ Vua Hùng. Nhưng không có Văn Hóa Cội Nguồn trong tay mà thôi. Cha Con Doãn Thường chỉ nhờ vào những bánh vẽ Dân Chủ, Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Nhờ vào những Thần Chú Tất cả là vì dân. Nhà Nước của Dân. Vương Quan chỉ là Công Bộc của Dân. Nhờ Thần Chú hiệu nghiệm nầy Cha Con Doãn Thường thổi một luồn Ma Thuật vào tâm hồn người dân Bách Việt làm cho người dân Bách Việt Bắc Văn Lang chỉ biết cuối đầu tuân theo. Cha Con Doãn Thường nổi lên lên chiếm lấy Bắc Văn Lang lập lên đất nước Trung Nguyên. Nước Văn Lang liền bị chia cắt Bắc Nam.

Hùng Việt Vương :  Tuân Lang đời thứ 13 Hạ Hùng Vương khó chiếm lại Bắc Văn Lang. Dẫn đến mất luôn Bắc Văn Lang rơi vào Nhà Chu Phương Bắc thời Chu Nguyên Vương. Chu Nguyên Vương nhà Chu phong cho Câu Tiễn làm Bá Chủ ở Phương Đông. Câu Tiễn cuối đầu vân mệnh Bắc Văn Lang rơi vào Phương Bắc từ đó. Nói về Việt Tế Gia nghe Doãn Thường phân tích tỉ mỉ về sự lợi hại nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang phản lại nhà nước Văn Lang với những câu mị chú vô cùng lợi hại liền thức tỉnh thực hiện theo mưu đồ của Doãn Thường. Thực hiện tạo ra những chiếc Bánh Vẽ Tự Do. Bánh Vẽ Công Bằng, Bình Đẳng. Bánh Vẽ Độc Lập Dân Tộc. Tất cả là của Dân. Do Dân. Vì Dân. Nhà Nước Của Dân. Vương, Quan chỉ là Công Bộc của Dân. Để thực hiện mưu đồ Nghiệp Vương Việt Tế Gia tung ra những khẩu hiệu bánh vẽ và những câu Mị Chú đầy hiệu quả. Phải nói là vô cùng hiệu quả. Và thật vậy không ai là không mơ ước đến Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Tự Do Mưu Cầu Hạnh Phúc. Không ai là không mê với câu Mị Chú. Tất Cả là của Dân Do Dân. Và Vì Dân. Không ai là không sung sướng khi nghe những câu Mị Chú nầy. Nhà Nước của Dân. Thời không ai là không hết mình. Cố mà xây dựng lên Nhà nước của Dân. Vương, Quan chỉ là Công Bộc của Dân. Nghe rất êm tai, mát lòng Dân Chúng. Trong khi ấy từ phương Nam đến Phương Bắc. Tất cả người Dân sống dưới thể chế Độc Tài, Độc Trị. Không có một chút Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng gì cả. Vua, Quan, muốn dân chết là chết, muốn dân sống là sống. Nơi nào cũng thấy đàn áp bóc lột không nói là thê thảm. Dưới thể chế Độc Tài Độc Trị, người Dân sống trong thể chế nhà tù rộng lớn. Mất hết tất cả những quyền cơ bản con người. Không khác gì cuộc sống nô lệ. Bổng xuất hiện những Bánh vẽ Tự Do Công Bằng, Bình Đẳng. Tất cả là của Dân, Do Dân Và Vì Dân. Nhà Nước của Dân. Vương, Quan là Công Bộc của Dân. Dân là Chủ. Thử hỏi người Dân nào không mê cứ ngở đó là Thiên Đàng trần gian, như thời Quốc Tổ dựng nước những quyền con người được thể hiện đầy đủ. Không có cảnh người bóc lột người mà tất cả đều là tự nguyện. Những chiếc bánh vẽ Cha Con Doãn Thường tung ra mà mỗi người Dân khao khác từ lâu. Đã là khác khao thời chỉ cần nghe thấy dù đó chỉ là lời nói liền chạy theo ngay. Cũng như người khác nước miễn cần có nước để được uống đâu còn nghĩ đến  nước đục nước trong, chỉ cần nghe có nước liền chạy tới đâu cần nghĩ gì đến sự đánh lừa. Lòng khao khác Tự Do Công Bằng Bình Đẳng từ lâu. Chỉ cần nghe thấy có sự Tự Do Công Bằng Bình Đẳng ra đời liền chạy theo ngay. Cha Con Doãn Thường đúng là tổ sư của tâm lý học hiểu tình hình dân chúng như hiểu trong lòng bàn tay của mình. Tạo ra một cuộc đánh lừa Bánh Vẽ khôn khéo như vậy. Lại thêm trăm mưu nghìn kế. Trong đó có một kế sách chủ lực là Mua Quan, Mua chức, Mua quyền. Con Cháu dòng họ Việt Tế Gia vốn có nhiều người làm Quan Tri Huyện. Để thực hiện mưu đồ lớn. Việt Tế Gia bỏ ra vô số vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu mua chức Quan Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu cho Doãn Thường. Nhờ chức Quan Tri Phủ nầy, Cùng những Quan Tri Huyện trong dòng họ. Bao che cho tất cả mọi hoạt động bí mật. Thậm chí luyện tập quân binh trong Châu Phủ cũng như các Nha Huyện chững bị cho một cuộc nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang. Thờ cơ chín mùi  Bắc Văn Lang đi vào loạn lạc cướp bóc hoành hành nổi dậy khắp nơi. Hơn chín mươi phần trăm Dân Bắc Văn Lang nhanh chóng đi theo phong trào Dân Chủ Tự Do do Cha Con Doãn Thường khởi xướng lãnh đạo. Làm lên một cuộc cách Mạng long trời lở đất. Chiếm lấy Bắc Văn Lang Biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ, Trung Nguyên nước Văn Lang trở thành Nam Bắc phân tranh. Chiến tranh truyền miên không ngày chấm dứt. Nguyên do là bỡi lạc Cội lạc Nguồn mất đi văn Hóa Cội Nguồn màng u minh xuống nước Văn Lang.
Lạc Nguồn Lạc Cội khổ từ đây
Chinh chiến đao binh kiếp nạn đầy
Nhìn thấy đau lòng sa giọt lệ
Văn Lang khốn khổ xót thương thay
Nồi da nấu thịt vì lạc lối
Tài gỏi làm gì chân chặt tay
Rồng mất Cội Nguồn Rồng hóa Rắn
Dân lạc Cội Nguồn biến đắng cay.

Thời Kinh Dương Vương khai khẩn ra đất Giao Chỉ. Lớn nhỏ dọc theo chín con sông. Giết chết không biết bao là Thuồng Luồng khai sanh ra Nước Xích Quỷ. Trải qua được chín đời. Đến đời thứ mười thời chuyển qua niên đại Hùng Vương. Nước Xích Quỷ mở rộng về Phương Nam. Trở thành Nước Văn Lang. Nước Xích Quỷ trở thành Bắc Văn Lang. QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG KHAI SANH RA NƯỚC VĂN LANG 2959 trước công nguyên. Nối truyền được 40 đời. Cọng thêm đời Quốc Tổ dựng nước là 41 đời. 23 đời Thượng Hùng Vương. 18 đời Hạ Hùng Vương. Đến thời Hạ Hùng Vương thứ 13, HÙNG VIỆT VƯƠNG, TUÂN LANG. 569 đến 506 trước công nguyên vào thời điểm 545 trước công nguyên. Cha Con Doãn Thường nổi lên cướp lấy Bắc Văn Lang. Biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên.  Xưng Vương ở giữa. Bắc Văn Lang từ đó dần dần biến mất. Những di tích Văn Hóa Văn Lang bị xóa đi. Thay thế vào đó những di tích Văn Hóa mới. Văn Hóa Trung Nguyên Trung Thổ. Thậm chí cả tên núi non, đất đai, sông, hồ, cũng cải đổi thành tên mới. Ở vào thời Kinh Dương Vương. Thời Sông Trường Giang Chính Là Sông Dương Tử. Chi nhánh ngược lên phía Bắc của sông Dương Tử  là Sông Trường. Khi sông Dương Tử chuyển thành sông Trường Giang. Thời chi nhánh phía Bắc sông Trường Giang, không còn gọi là Sông Trường  mà gọi là Sông Hán. Sông Kinh, Sông Âu, Sông Lạc đều ở Bắc Văn Lang phía nam sông Trường Giang. Nói tốm lại: Phương Bắc xâm chiếm đất Văn Lang tới đâu thời những di tích Văn Hóa Văn Lang bị xóa sạch. Thay vào đó là những Văn Hóa mới theo Phương Bắc. Nên sử sách Trung Quốc không ghi chép nguồn gốc nước Văn Lang. Đây là một âm mưu lớn lâu dài Phương Bắc hầu nuốt trọn nước Văn Lang.
**************


PHẦN 5

Phương Bắc thời Nhà Chu. Hết thời hưng thịnh Nhà Tề thôn tính hàng phục các nước. Đến thời Nhà Tấn hùng mạnh chinh phục các nước. Từ thời Tấn Huệ Công xuống tới Tấn Hoài Công. Tấn Mục Công. Tấn Văn Công. Tấn Cảnh Công. Tấn Lệ Công. Tấn Điệu Công. Tấn Bình Công. Tấn Chiêu Công. Thời Nhà Chu Phương Bắc cũng đã trải qua nhiều đời Vua. Chu Vũ Vương. Chu Thành Vương. Chu Mục Vương. Chu Di Vương. Chu Lệ Vương. Chu Tuyên Vương. Chu Ung Vương. Chu Hoàn Vương. Chu Trang Vương. Chu Ly Vương. Chu Huệ Vương. Chu Tương Vương. Chu Định Vương. Chu Giãn Vương. Chu Linh Vương đến  Chu Cảnh Vương Nhà Chu. Thời Phương Bắc xảy ra không biết bao nhiêu là chiến tranh biến loạn, binh đao máu lửa. Hết thời kỳ Tề hưng thịnh. Đến thời kỳ Tấn ra oai các nước đánh nhau chiến tranh loạn lạc kéo dài mấy trăm năm dân chúng Phương Bắc điêu linh khắp nơi. Trong cảnh binh đao máu lửa Vua, Quan vơ vét thậm tệ phụ vụ cho chiến tranh. Dân chúng đói rét cơ cực  khốn cùng. Không ít dân chúng bỏ Phương Bắc. Bỏ xứ ra đi lánh nạn vào Phương Nam. Tức là Bắc Văn Lang sanh sống. Có thời điểm dân chúng Phương Bắc chạy lánh nạn chiến tranh di cư vào Bắc Văn Lang, chỉ trong vòng bảy ngày lên đến cả vạn người.  Phải nói con số di cư vào Bắc Văn Lang mỗi ngày mỗi kinh khủng. Đến nổi chính quyền địa phương Châu, Quận, Huyện. Giải quyết nạn đi cư không nổi, đành để cho phần lớn sống sanh sống vô gia cư tràn lan khắp Bắc Văn Lang. Làm cho Bắc Văn Lang đi vào hổn loạn. Ở vào thời điểm nầy.

Hùng Việt Vương, Tuân Lang. Lên Ngôi Quốc Vương Hoàng Đế Trị Vì Thiên Hạ Thay Cha Là: Hùng Vũ Vương, Đức Hiền Lang. 569 đến 506 trước công nguyên. Đến 545 thời Bắc Văn Lang có biến động. Cha Con Doãn Thường nổi dậy. Cùng dân chúng Bách Việt Văn Lang nổi dậy. Làm lên một cuộc cách mạng long trời lở đất. Cha Con Doãn Thường chiếm lấy hai phần Bắc Văn Lang. Như Bắc Giang Giao Châu. Lạc Giang Giao Châu. Dương Giang Giao Châu. Quý Linh Giao Châu. Xích Linh Giao Châu. Hợp Giao Châu. Kinh Giang Giao Châu. Động Đình Châu. Diêm Hồ Châu. Giao Giao Minh Châu. Ninh Giao Châu. Tam Giang Châu Thượng Tây giang Châu. Uất Lang Việt Châu. Lâm Giang Tây Châu. Quế Giang Giao Châu. Liễu Giang Châu. Lạc Trung Châu. Hạt Linh Châu. Kiến Giao Châu. Phúc Hải Châu. Lâm Giang Tây Châu. Định Giao Châu. Cùng thời điểm ấy Tây Bắc Văn Lang Dân Chúng nổi dậy chiếm lấy Cương Châu xưng Vua Cương Việt. Cướp lấy Ngô Châu xưng là Ngô Việt. Cướp ấy Di Châu xưng Vua Di Việt. Cướp lấy Liêu Châu xưng là Liêu Việt. Cướp ấy Hung Châu xưng là Hung Việt. Cướp Lấy Lưu Châu xưng là Lưu Việt. Cướp Lấy Phù Châu xưng là Vua Phù Việt. Cướp Lấy Lỗ Châu xưng là Lỗ Việt. Cướp Lấy Mân châu xưng là Vua Mân Việt. Cướp lấy Ngung Châu xưng là Ngung Việt. Cướp lấy Nô Châu xưng là Vua Nô việt. Cũng cùng thời điểm ấy Đông Bắc Văn Lang Dân Chúng nổi dậy chiến Đông Hải Châu xưng là Vua Đông Việt. Chiếm lấy Đông Bắc Hải Châu xưng là Vua Hải Việt. Chiếm lấy Nam Hải Giao Châu xưng là Vua Giao Việt. Dạ Loan Châu xưng Loan Việt. Chiếm lấy Thất Khê Châu xưng Vua Khê Việt. Chiếm lấy  Đình Hải Châu xưng Vua Điền Việt. Chiếm lấy Cái Hải Châu xưng Vua Lạc Việt. Chiếm lấy Hạ Giang Châu xưng Vua Lang Việt. Thế dân nổi dậy như nước vỡ bờ chiếm lấy toàn bộ Bắc Văn Lang.

Doãn thường là nhà Quân Sự Chính Trị tài năng lỗi lạc hiểu rõ tình thế xã hội. Hiểu rõ nguyện vọng của dân. Hiểu rõ tâm lý của dân. Và cũng hiểu rõ nói láo là mẹ đẻ của chính trị dẫn đến thắng lợi thành công. Với câu khẩu hiệu tất cả đấu tranh là vì Dân giải phóng bóc lột cho Dân. Giải phóng nô lệ cho Dân. Đêm Lại quyền sống quyền tự do cho Dân. Ai cũng có đất ruộng để cày. Lập lên Nhà Nước của Dân do Dân vì Dân. Quân Đội của Dân Vì dân mà chiến đấu vì dân mà quên mình, bảo vệ độc lập tự chủ xóa bỏ nô lệ. Lập lên một Xã Hội, Công Bằng, Bình Đẳng, Dân Chủ, Văn Minh. Thoát khỏi ách Độc Tài Độc Trị, Thoát khỏi thể chế xin cho, thoát khỏi  tham quan tàn bạo. Lập lên nước Việt Trung Nguyên dân giàu nước mạnh thay thế cho nhà nước Văn Lang. Nhà Nước độc tài độc trị. Đi ngược lại di chí Quốc Tổ Vua Hùng. Tất cả ngôn từ văn từ như một liều thuốc bổ. Dân chúng theo Cha Con Việt Tế Gia như nước vỡ bờ.

Ngày 3 tháng 2 năm 545 trước công nguyên Cha Con Doãn Thường  triệu tập các Vua Việt hội nghị tại Đất Cối Kê nơi đền thờ Vua Vũ  từ thời Nhà Hạ đến Phương Nam đến Đất Cối Kê lập nghiệp. Hơn mấy mươi Vua Việt ở Đông Bắc Văn Lang. Tây Bắc Văn Lang, đều tới dự hội đông đủ. Gọi là Hội Liên Minh Việt  Bắc Văn Lang. Nơi Đất Cối Kê đền Thờ Vua Vũ. Doãn Thường như một vị anh hùng biện tài vô ngại thuyết phục các Vua Việt mới nổi lên đòi tự trị  liên minh thành một khối. Trở thành một Nhà Nước mới. Nhà Nước Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Bài hùng biện của Doãn Thường trước các Vua Việt  như sau.

Thưa các chư vị Anh Hùng chúng ta là những người khác khao Tự Do, khác khao Công Bằng, Bình Đẳng. Giành lại Quyền Sống. Quyền Tự Quyết. Quyền Tự Do Mưu Cầu Hạnh Phúc. Xây dựng lên một Nhà Nước Trung Lập Nhà Nước Của Dân, Do Dân, và vì Dân. Loại bỏ chế Độ Độc Tài Độc Trị. Sống Theo Hiến Pháp, Luật Pháp. Ai cũng như ai Bình Đẳng. Như thời Quốc Tổ Vua Hùng dựng lên Nhà Nước Văn Lang. Các Vua Hùng thời nay không làm theo lời dạy Quốc Tổ. Trở thành Nhà Nước Độc Tài Độc Trị. Nhà Nước không lấy dân làm gốc. Không Ai sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Mà sống theo thể chế Độc Tài Độc Trị, thể Chế của sự xin cho. Thể chế của sự bóc lột thậm tệ. Không làm đúng những gì Quốc Tổ Vua Hùng đã dạy. Chúng ta là con cháu Tiên Rồng. Chúng ta đi theo lời dạy Quốc Tổ Vua Hùng. Sống Tự Do Công Bằng Bình Đẳng. Không phải sống dưới ách thống trị cường hào nô lệ. Muốn thực hiện một Nhà Nước Trung Lập Việt Trung Nguyên Tự Do. Công Bằng. Bình Đẳng, Công Minh như thời Quốc Tổ Vua Hùng. Thời chúng ta phải liên minh đoàn kết bầu lên Minh Chủ Việt Vương. Lập lên Nước Việt Trung Nguyên. Nam Có Hùng Vương. Bắc Có Chu Vương. Chính Giữa Có Việt Vương.

Cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước. Phương Nam ở vào thời Hùng Huy Vương. Phương bắc ở vào thời Chu Di Vương. Bắc Văn Lang cũng đã nổi lên đòi tự trị chiếm lấy các Châu Bộ. Hình thành lên cả trăm Vua Việt nhưng rốt cuộc đã bị thảm bại bị trước thế lực xâm lược Ân Mao Vương, Hung Di Vương. Hồ Vương. Thôn tính giết sạch. Nếu còn sót vị Vua Việt nào thời Hùng  Huy Vương cho quân tri quét diệt tận gốc. Đây là bài học cho chúng ta. Với địa thế Bắc Văn Lang trở thành Nước Việt Trung Thổ Trung Nguyên. Đất đai phì nhiêu rộng lớn. Sông Hồ Kinh Rạch chằng chịt. Dân số đông không kém Nam - Bắc là mấy. Chúng ta sẽ có một đội quân hùng mạnh Nam đánh bại thế lực  Hùng Vương. Bắc đánh bại thế lực Chu Vương. Vì sao lại nắm chắc như thế. Vì Thế lực Hùng Vương đang trên đà suy yếu. Tham Quan mọc lên như nấm. Mạnh ai nấy lo túi riêng của mình. Nhất là đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn không làm đúng như những gì lời dạy Quốc Tổ. Đánh mất lòng tin của muôn dân. Tuy Thế lực Hùng Vương còn rất mạnh. Nhưng chúng ta không phải là ngoại xâm. Mà là những người người Dân bất mãn với thể chế Độc Tài Độc Trị không làm theo lời dạy quốc Tổ Vua Hùng. Trở thành Nhà Nước Độc Tài Độc Trị không khác gì Nhà Nước  Phương Bắc những Vương, Quan, tham lam tàn bạo. Đã đánh mất lòng tin của Dân Chúng. Nên Dân Chúng không ít người bỏ Hùng Vương mà theo chúng ta. Còn Phương Bắc Nhà Chu cũng đã đến thời suy yếu Con Cháu Nhà Chu Tàn Sát Lẫn Nhau. Không kể gì tình anh em ruột thịt. Chỉ biết tranh giành đị vị quyền lực. Ăn nuốt lẫn nhau. Các trấn Chư Hầu cũng chẳng khác chỉ tranh hùng tranh Bá. Mạnh được yếu thua. Thắng là Vua thua là Giặc. Lúc nầy Sở Linh Vương đang thời hưng thịnh tranh hùng tranh Bá dữ dội. Các nước Phương Bắc lo sợ luôn ở vào thế chiến tranh. Sở Linh Vương cậy thế hùng cường đánh hết nước nầy đến nước khác chiến tranh dữ dội. Con cái Sở Vương tranh ngôi  thôn tính lẫn nhau. Sở Bình Vương giết chết ba anh lên ngôi càng thêm hổn loạn. Nói chung Phương Bắc chiến tranh tàn khóc ai lo phận nấy khó mà làm gì được chúng ta. Thời cơ đã giúp chúng ta làm lên nghiệp lớn. Nếu Chúng Ta biết đoàn kết lập lên một Nhà Nước Việt Trung Nguyên hùng mạnh. Trong tương lai  một là nuốt trọn nước Văn Lang.  Hai là nuốt trọn Phương Bắc. Làm lên một lịch sử Trung Nguyên hào hùng long trời lở đất.

Các Vua Việt mới nổi lên tự trị nghe có lý nếu không chung nhau đoàn kết thành một Nước Việt Trung Thổ Trung Nguyên hùng mạnh thời phía Bắc sẽ bị Ngô, Sở, đánh vào thôn tính. Phía Nam Vua Hùng đánh ra tiêu diệt Chẳng khác gì thời Phù Đổng Thiên Vương cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước. Hơn năm mươi Vua Việt muốn tồn tại thời phải đoàn kết đại đoàn kết như một bó đủa khổng lổ không ai bẻ nổi. Sự nhận thức về sự tồn tại, các Vua Việt đồng tôn Doãn Thường lên Làm Việt Vương. Doãn Thường khôn khéo nói Mỗ Tôi tuy được các Đại Anh Hùng tín nhiệm tôn phong lên làm Việt Vương. Nhưng Mỗ tôi giới thiệu một người tài trí có công lớn trong cuộc khởi nghĩa thắng lợi nầy đó là Việt Tế Gia Cha của Doãn Thường. Thế Là Việt Tế Gia  được các Đại Anh Hùng toàn Bắc Văn Lang suy tôn lên Làm Việt Vương. Đầu  Mùa Thu 545 Nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời. Tạm Thời xử dụng Kinh Đô Kinh Dương Vương làm Kinh Đô Trung Thổ Trung Nguyên. Việt Vương Tế Gia nhờ có Doãn Thường cũng cố Triều Chính nhanh chóng. Việt tế Gia lập Doãn Thường làm Thế Tử nối ngôi Vương.
Gian đảng âm mưu cướp đất rồi
Vẽ vời bịa chuyện cứu dân ôi
Văn Lang miền Bắc còn đâu nữa
Xưng Vương xưng Chúa trổ hung tôi
Khổ ải trùm lên dân khốn khổ
Lạc Nguồn lạc Cội Cáo Sói xơi
Nước non, non nước đầy binh lửa
Văn Lang máu đổ cảnh đầu rơi.
**************


PHẦN 6

Nói về Con Cháu Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn liên quan đến tội giết Vua. Bằng trốn vào Nam đến Bắc Văn Lang sanh sống trải qua nhiều đời trở thành dân Văn Lang Hàng năm đều dự hội đồng hương nơi đền thờ Vua Vũ nên được Con Cháu Vua Vũ giúp đở có người trở thành Triệu Bá Gia giàu có nhất nhì Bắc Văn Lang. Con Cháu Triệu Xuyên đến đời Triệu Phàn thời giàu có nổi tiếng Bắc Văn Lang trở thành Triệu Bá Gia.  Có ba người con tài năng vô song Văn Võ song toàn. Triệu Quân. Triệu Hàn. Triệu Anh. Việt Vương Tế Gia phong Triệu Phàn Bá Gia chức Thượng Quân Nguyên Soái thống lãnh 10 vạn quân cùng ba người con làm chủ Tướng trấn giữ Đông - Nam Trung Thổ Trung Nguyên tức là Đông, Nam Bắc Văn Lang chống trả lại thế lực Hùng Việt Vương, Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương.

Việt Vương Tế Gia phong cho Triệu Công Con Cháu nhiều đời Triệu Thuẫn. Chức Trung Quân Nguyên Soái thống lãnh 10 vạn quân cùng hai Con phong làm Chủ Tướng. Triệu Côi. Triệu Chi. Trấn giữ Tây Nam Trung Thổ Trung Nguyên. Tức là Tây Nam Bắc Văn Lang.

Việt Vương Tế Gia phong Phạm Đổ Chinh chức Tân Quân Nguyên Soái thổng lĩnh 10 vạn quân. Cùng hai phó Chủ Tướng là Chũng Hầu. Giá Chữ. Trấn giữ chánh Nam Trung Nguyên, tức là Chánh Nam Văn Lang. Việt Vương Tế Gia phong con Chư Hạo Chư  Mạnh Hùng Trung Quân Nguyên soái, cùng hai con Chư Kế Dĩnh. Chư Tôn Quá làm Đại Tướng thống lãnh 10 vạn quân trấn giữ Tây Bắc Trung Nguyên tức là Tây Bắc Văn Lang.

Việt Vương Tế Gia phong Linh Việt Hàn Tân Quân Nguyên Soái. Thống Lãnh 10 vạn quân cùng hai Con là Linh Cô Phù. Linh Quang Dũng. Trấn giữ Trung Bắc Trung Nguyên, tức là Trung Bắc Văn Lang.

Việt Vương Tế Gia phong cho Thường Thọ Quá chức Thượng Quan Đại Phu thống lĩnh 7 vạn quân, cùng con là Thường Thọ Chí trấn giữ Đông Bắc Trung Nguyên tức là Đông Bắc  Văn Lang.

Việt Vương Tế Gia phong cho tất cả các Vua Việt. Tây Trung Nguyên. Đông Trung Nguyên, tức là Tây Văn Lang Đông Văn Lang thành các Trấn chư hầu dưới sự điều khiển Nhà Nước Việt Trung Nguyên. Thế là nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời bài bản vô cùng hùng mạnh. Với chính sách đổi mới Bắc khác Nhà Chu. Nam khác Vua Hùng. Lập lên một nhà nước Việt Trung Nguyên mới lạ. Nhà Nước lập lên bằng danh từ bóng bẩy. Sống trên danh từ  nói một đường làm một nẻo. Nói Tự Do nhưng lại quản lý cuộc sống con người chặt chẽ. Nói lấy dân quyền làm gốc nhưng thật ra dân không có cái quyền gì cả. Nói tất cả là của dân nhưng thật ra tất cả là của Nhà Nước dân trắng tay không ai có một tất đất nào làm công khoáng trắng của Nhà Nước Độc Quyền Độc Tài. Độc Trị của một nhốm người. Người dân chỉ là công cụ nô lệ. Có thể nói Nhà Nước Việt Trung Nguyên là Nhà Nước lạm dụng danh từ sống trên danh từ. Nhà Nước ảo không có gốc Nhân Quyền chỉ  tạo lên Bánh Vẽ  Dân Chủ Tự Do, bánh vẽ  lấy Dân Làm Gốc. Lừa đảo lòng ham muốn của dân. Đem tất cả cái lợi về cho dân nhưng toàn là những bánh vẽ  không bao giờ ăn được chỉ nghe cho sướng tai. Chỉ thấy trên lời nói. Trên giấy tờ  thế mà cũng tạo lên sự chú ý Dân Chúng Phương Bắc cũng như Phương Nam. Một số lớn Dân Chúng cả hai phương Nam - Bắc cho rằng Nhà Nước Việt Trung Nguyên ra đời mới thật sự là Nhà Nước của Dân do Dân và vì Dân. Và Họ muốn theo về Nhà Nước Việt Trung Nguyên. Vì thế nhà nước Việt Trung Nguyên càng về sau càng lớn mạnh sự đánh lừa khôn khéo nầy cũng đêm lại những kết quả ban đầu. Nhưng về sau Dân Chúng phát hiện hiểu ra Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng, Dân Chủ, Nhân Quyền, Dân là cái gốc của Nhà Nước. Nhà nước của Dân do Dân vì Dân. Tất cả chỉ là chiếc Bánh vẽ để lừa. Nhưng khi hiểu ra thời tất cả đã muộn. Cha con Doãn Thường cũng chẳng khác gì các Vua Nhà Chu. Các nước Phương Bắc Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Quản lý gắt gao  mọi sự sống của Dân quản lý chặt chẽ hơn nữa. Tất cả người dân như đang sống trong một nhà tù lớn. Không có tự do hay Công Bằng, Bình Đẳng, Dân quyền gì cả. Mà tất cả sự sống của dân chỉ là sự sống nô lệ. Trước đây nô lệ cho những Địa Chủ, Phú Nông. Nay Toàn dân trở thành nô lệ cho Nhà Nước. Nhà Nước Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Nhà Nước của sự xin cho  bóc lột sức lực của muôn dân một cách khéo léo không Nhà Nước nào bằng. Như con đĩa hút máu người mà không thấy đau. Khi dân biết được mưu đồ khai dựng sự nghiệp Việt Vương của Cha Con Doãn Thường, thời mọi chuyện đã rồi. Ý Vua là Ý Trời thuận thời sống, chống là chết. Tất cả tài sản của Dân Chúng chính là tài sản của Nhà Nước. Khi cần thời Nhà Nước lấy. Với một thể chế xin cho Nhà Nước Việt Trung Nguyên làm gì thì làm tàn bạo còn hơn Nhà Nước Văn Lang ở các  thời cuối Hậu Hùng từ thời Hùng Việt Vương, Tuân lang trở xuống. Cũng như Phương Bắc Thời Mạc Nhà Chu.

Nói chung Phương Bắc. Phương Nam. Việt Trung Nguyên, cá mè một lứa cũng Độc quyền. Độc Tài, Độc Trị chẳng khác gì nhau. Tham quan tàn bạo. Thắng là Vua, thua là Giặc xem đi xét lại Giặc với Vua cũng chẳng khác gì nhau. Nhà Nước Việt Trung Nguyên không tồn tại được lâu, như triều đại Hùng Vương kéo dài  độc lập 2701 năm. Trong khi Cha Con Doãn Thường cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên độc lập tự chủ chỉ trên dưới 70 năm.

Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu năm 496 trước công nguyên. Vua Nguyên Vương Nhà Chu, phong Bá cho Việt Vương Câu Tiễn. Trở thành ( Việt Bá Vương) làm chủ Phương Đông. Việt Vương Câu Tiễn cuối đầu dâng Việt Trung Nguyền cho Nhà Chu. Bắc Văn Lang trở thành đất Phương Bắc. Tức thời Bắc Văn Lang nhà nước Việt  Trung Nguyên lại chuyển sang một giai đoạn mới. Giai đoạn Trung Quốc trở thành trấn chư hầu Nhà Chu. Việt Trung Nguyên trở thành đất Bắc nhập về Phương Bắc.  Bắc Văn Lang mất từ đây. Nước Văn Lang chỉ còn lại Miền Trung, Miền Nam. Không cách gì lấy lại Bắc Văn Lang được nữa triều đại Việt Vương Tế Gia. Đến thời Nhà Tần thời coi như hủy diệt không còn. Thay thế vào đó là Triệu Việt Vương.

Nói tốm lại lịch sử Bắc Văn Lang bị Cha Con Doãn Thường cướp, trở thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên đến thời Việt Vương Câu Tiễn, tùng phục Nhà Chu, Bắc Văn Lang Trung Nguyên nhập về Phương Bắc chuyển thành Trung Quốc. Tất cả những di tích Văn Hóa. Cũng như danh nhân những người có công với đất nước Văn Lang bị xóa sạch. Thay thế vào đó là Văn Hóa Phương Bắc. Thờ phụng những người có công ăn cướp Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên mà thôi. Chỉ còn sót lại những di tích Viêm Đế Thần Nông. Ông Tổ sáng lập lên nền Văn Minh lúa nước. Từ năm đời  niên đại Viêm Đế Thần Nông. Truyền xuống niên đại Kinh Dương Vương chín đời. Đến đời thứ mười thời chuyển sang niên đại Hùng Vương 41 đời. Thượng Hùng Vương 23 đời. Hạ Hùng Vương 18 đời. Cha Con Doãn Thường cướp lấy Bắc Văn Lang  biến thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Thời không những Văn Hóa truyền thống Văn Lang bị xóa sạch. Mà  những di tích 41 đời Hùng Vương. Cũng như các Công Thần có công chống ngoại xâm giữ nước, cũng đều bị xóa sạch, thay thế vào đó, là Văn Hóa Trung Nguyên mới sáng lập. Cũng như những danh nhân có công cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên. Cha con Doãn Thường làm như thế là làm cho Bắc Văn Lang sẽ dần dần biến mất không còn tồn tại nữa. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu  theo về Phương Bắc. Thời Trung Nguyên Bắc Văn Lang lại tiếp tục xóa sạch những di tích Văn Lang còn sót lại. Di Tích Chín đời Kinh Dương. Chỉ còn sót lại Thời Viêm Đế Thần Nông. Kể từ khi nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời. Thời nước Văn Lang chỉ còn Trung Văn Lang, Nam Văn Lang mà thôi.
Về sau có thơ rằng :
Doãn Thường cướp lấy Văn Lang
Xưng Vương xưng Đế nối nhau đời đời
Nào hay Phương Bắc nuốt rồi
Cáo già đã giả con trời còn chi
Tiếng đời để lại bia ghi
Phản non hại nước mấy khi trường tồn
Thảm thương con cháu Tiên Rồng
Lạc Nguồn Lạc Cội mắc vòng khốn nguy
Thiên Đàng đã mất lối đi
Hồn sa Địa Phủ Âm Ti nghìn trùng.

Khi cha con Doãn Thường lên ngôi Việt Vương biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Thời những di tích Văn Hóa Văn Lang từ thời Kinh Dương Vương đến thời Đại Hùng Vương đều xóa sổ không cho dân chúng nhắc tới nữa. Thay thế vào đó một số di tích Văn Hóa mới. Văn Hóa thời đại Trung Nguyên. Thờ phụng những người có công nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang. Thay đổi một số tên sông. Chẳng hạn như sông Dương, đổi tên thành sông Trường Giang. Một số tên núi. Thay đổi tên Châu. Bộ. Thay đổi tên Kinh Đô. Kinh Đô Xích Quỷ thành Kinh Đô Trung Nguyên. Nói chung là thay đổi hầu hết, danh từ mới thay cho danh từ cũ. Văn Hóa Truyền Thống Văn Lang  dần dần biến mất không còn. Đều đáng nói ở đây Cha Con Doãn Thường biến Nước Xích Quỷ, Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên. Xảo ngôn Truyền Bá đất Trung Nguyên là do công lao Vua Vũ khai lập ra. Thế hệ đời sau mắc lừa cho rằng công lao Vua Vũ,thực là to lớn. Dẫn nước chín con sông, làm cho chín Châu có thể ở được. Con cháu Vua Vũ. Đến thời Việt Vương Câu Tiển, đánh bại nước Ngô. Trả đất lại cho nước Sở.Trả đất lại cho nước Lỗ. Mà nước Ngô đã chiếm lấy. Việt Vương Câu tiễn hòa hảo với các trấn chư hầu đất Bắc. Như  Tề. Tấn. Vân Vân . . . cùng một số  trấn chư hầu khác hội hộp ở Từ Châu. Tùng phục theo Nhà Chu. Vua Nguyên Vương Nhà Chu. Phong Cho Việt Vương Câu Tiễn VIỆT BÁ VƯƠNG làm chủ phương Đông. Việt Vương Câu tiễn cuối đầu dâng Việt Trung Nguyên cho Phương Bắc. Tức thời đất việt Trung Nguyên lại chuyển sang một giai đoạn mới không còn độc lập tự trị nữa mà trở thành TRUNG QUỐC.
**************


PHẦN 7

Nói về Cha Con Doãn Thường từ khi lên ngôi Vương luôn cũng cố bộ máy Độc Tài Độc Trị. Một cách hiệu quả. Kiểm soát quản lý vận hành chặt chẽ vững bền không sơ sót. Luôn luôn phát huy sức mạnh cơ sở  hết đêm cái lợi ảo nầy ra đến cái lợi ảo khác cuốn hút người dân chạy theo. Tất cả cái lợi ảo đều từ chính sách ban ra nhưng không bao giờ thực hiện được. Chỉ đọc ra cho Dân nghe sướng tai mà thôi. Cha Con Doãn Thường mở ra thật nhiều trường học nhưng có học mà không đi vào cuộc sống học toàn Văn Từ đồi trị có lợi cho việc mưu phản lại nhà nước Văn Lang chẳng ra đâu, càng học càng dốt. Chuyên moi móc những cái xấu của Vua Quan nhà nước Văn Lang, tán tụng việc làm phản loạn của mình cho là việc làm chính nghĩa. Những ai nói lên sự thật liền bị chém đầu hoặc bị cô lập cho đến chết. Tuy mở rộng con đường giáo dục nhưng để ca tụng cuộc cách mạng thần thánh của mình. Mở trường lớp dạy dân nhiều nhưng học toàn là những chuyện mê tín những cuộc tình lãng mạng trai gái. Hầu làm cho dân chúng quên truyền thống dân tộc anh linh hơn mấy nghìn năm nói tốm lại có học nhiều nhưng không đâu vào đâu cả càng học nhiều  thời càng mờ mịt không có tôn chỉ mục đích nào cả. Các vị tu Tiên trên núi  thường nói (Chính sách ngu Dân đã được thực hiện) Dân Bắc Văn Lang dần dần quên Cội quên Nguồn, nhưng cơ trời đã thế khó mà cứu vãn được. Tương Lai của người Dân Bắc Văn Lang. Không phải đi đến no cơm ấm áo. Mà  là sống trên văn từ bóng bẩy. Bằng cấp hư danh. Làm mê hoặc lòng ham muốn của con người mà thôi. Có thể nói không có Nhà nước nào hộp hành nhiều như Nhà Nước Việt Trung Nguyên hầu như ngày nào cũng hộp. Mục đích là để bôi trơn bộ máy. Khỡi động liên tục đè bẹp những ý tưởng phản loạn. Diệt mần họa trong trứng nước không cho có cơ hội suy nghĩ đúng sai  tạo phản. Cha Con Doãn Thường tạo ra một thể chế kiểm soát gắt gao chặt chẽ không những quản lý về vật chất không cho dân chúng giàu sang. Mà còn quản lý cả tinh thần ý nghĩ của dân chúng. Cha con Doãn Thường thực hiện chính sách như vậy,bcứ nghĩ làm như thế Nhà Nước Trung Nguyên sẽ được bền vững lâu dài.

Nào hay đâu lại dẫn đến mau sụp đổ. Cha Con Doãn Thường nào hiểu, sự tồn tại của chế độ  chính là phát triển Tiến Hóa Xã Hội. Sự tồn tại của Xã Hội chính là cái mới thay thế cho cái cũ. Sự tồn tại của Nhà Nước chính là Công Bằng Bình Đẳng. Sự bảo thủ độc tài độc trị, kìm hảm sự phát triển xã hội, kìm hảm quyền tự do của con người, chính là đi vào con đường tự sanh tự diệt. Không cần đánh đổ nó cũng tự sụp đổ. Sự tiến hóa loại bỏ cái cũ lỗi thời, tiến đến cái mới non trẻ, tiến hóa loại bỏ tự nhiên, không có sự mâu thuẩn xung đột nào cả đó chính là sự trường tồn văn minh xã hội. Sự cũng cố Độc Quyền. Độc Tài, Độc Trị. dù cho có tài tình tinh vi đến đâu cũng dẫn đến sự xơ cứng của thể chế bảo thủ Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị dẫn đến Nhà Nước Trung Nguyên đi vào xóa sổ. Chỉ khi nào thật sự đi vào quy luật tự nhiên cái mới liên tục phát triển thay cho cái cũ lỗi thồi mới đi vào tồn tại lâu dài. Cha Con Doãn Thường không những không làm được điều đó có thể nói là chưa phát hiện ra điều đó. Mà chỉ tạo ra những chiếc bánh vẽ lừa gạt dân chúng mà thôi. Nên không thể trụ vững lâu dài được cuối cùng cũng bị Phù Sai đánh bại. Về sau Câu Tiễn tuy diệt được Phù Sai nhưng cuối đầu trước Nhà Chu. Được Nhà Chu Chu Nguyên Vương phong Bá. Bá Vương Câu Tiễn Trung Nguyên không còn tự chủ Độc Lập được nữa thuộc về Phương Bắc. Việt Trung Nguyên chuyển sang một giai đoạn mới giai đoạn trở thành Trung Quốc. Việt Trung Nguyên xát nhập về Phương Bắc thời Chu Nguyên Vương hàng năm phải chịu sự cống nạp cho Nhà Chu.  Bắc Văn Lang coi như biến mất không còn từ đây.

Đây nói về nơi Kinh Đô Văn Lang. Ngày 20 tháng 3, 545 trước công nguyên Hùng Việt Vương, Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương vô cùng tức giận khi nghe tin Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang trước Vương Triều Hùng Việt Vương quát hỏi triều thần Cha Con Doãn Thường là ai mà ghê gớm như vậy nổi loạn chiếm lấy Bắc Văn Lang. Hầu TônVương nghe Quốc Vương hỏi liền bước ra báo cáo rằng.

Muôn tâu Quốc Vương bệ Hạ Cha Con Doãn Thường là con cháu 31 đời Vua Vũ thời Nhà Hạ. Di cư đến Huyện Cối Kê Lạc Giang Giao Châu sanh sống. Nhập cư thành dân Bách Việt Văn Lang, trở thành dân Văn Lang chính thống. Giàu có thuộc bậc nhất Bắc Văn Lang. Doãn Thường làm quan đến chức Quan Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu. Dòng họ Vũ có Âm Mưu chiếm đoạt Bắc Văn Lang từ lâu, nhưng không mấy ai phát hiện được. Khi phát hiện được thời đã bị Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp mất Bắc Văn Lang rồi. Hùng Việt Vương nghe xong nổi giận đùng đùng hét lớn lũ cướp nước hại dân hại nước kia phải tiêu diệt cho bằng được không để cho một tên sống sót. Các Khanh hãy hiến kế cho Trẫm để Trẫm nhanh chóng cho người quét sạch Cha Con Đoãn Thường trừ hậu họa.

Hầu TônVương  nghe xong bằng tâu rằng.
Muôn Tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Cha Con Doãn Thường đã có âm mưu dã tâm chửng bị từ trước lôi kéo dân chúng nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang thế lực rất mạnh. Trung Văn Lang đang trong cơn hổn loạn không phân biệt được phải trái trắng đen. Có người cho rằng Cha Con Doãn Thường là các Vua Hùng tái sanh lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên. Nên dân chúng theo Cha Con Doãn Thường như nước vỡ bờ không có cách gì ngăn cản lại nổi thế lực phản loạn như cơn bão không những chiếm lấy Bắc Văn Lang mà còn tràn vào trung Văn Lang. Châu Phủ , Thục An Kim. Anh Kỳ. Thạch Trung Sơn. Kỳ Thọ ra sức chống trả. Không cho Quân nổi loạn tiếng vào Trung Văn Lang. Tình thế vô cùng cấp bách.

Hùng Việt Vương nghe Hầu Tôn Vương tâu như vậy lấy làm kinh hãi nói. Các Khanh có kế sách gì chống trả lại thế lực quân phản loạn không? Hùng Việt Vương Tuân Lang, hỏi đi hỏi lại đến mấy lần Thấy dưới triều các Quan Tướng làm thinh. Hùng Việt Vương than các khanh thường ngày khoe tài khoe giỏi, cái tài cái giỏi bay đi đâu hết rồi. Từ chỗ ngồi Hầu Lạc Vương đứng dậy nói Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ: Cha Con Doãn Thường nổi lên làm loạn chiếm lấy Bắc Văn Lang nhanh chóng như vậy. Là có sự đồng tình phần lớn dân chúng Bắc Văn Lang. Nhất là thành phần dân chúng Phương Bắc lánh nạn chiến tranh di cư vào Bắc Văn Lang sanh sống đều theo Cha Con Doãn Thường. Chưa kể tình trạng dân chúng di cư qua Bắc Văn Lang làm ăn bất hợp pháp chưa nhập tịch thành dân Văn Lang trên hai triệu người. Nghe Đâu các ban phái ác ma tà giáo cũng  gia nhập theo quân phiến loạn Cha Con Doãn Thường. Thế lực quân phản loạn phải nói là rất hùng mạnh nếu không có kỳ tích nhân tài xuất hiện thời khó mà dẹp quân phản loạn nhanh chóng được. Hùng Việt Vương nghe Hầu Lạc Vương báo cáo như vậy thời không khỏi lấy làm lo lắng.

Hầu Thừa Vương từ chỗ ngồi đứng dậy nói Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ: Quân phiến loạn Cha Con Doãn Thường là quân nội loạn. Không phải là quân xâm lược có sự đồng tình của dân chúng đã cấu kết thành sức mạnh được sự che chở của muôn dân Bắc Văn Lang khó mà đánh tan một ngày hai ngày được. Đáng lý ra tiêu diệt mầm phản loạn ngay từ đầu, giờ đây thời đã muộn khó mà tiêu diệt vì dân chúng Bắc Văn Lang đã lập Cha Con Doãn Thường làm Việt Vương Tế Gia có nghĩa là Dân Chúng  Bắc Văn đã có Quốc Vương mới dân chúng Bắc Văn Lang phò cha con Doãn Thường chống trả lại nhà nước Văn Lang nên khó mà tiêu diệt nhanh chóng được. Lại nữa Cha Con Doãn Thường không phải là quân xâm lược mà là quân loạn tặc phản loạn nổi dạy quyết  lật đổ  nhà nước Văn Lang lập lên thời đại mới, thời đại Việt Trung Nguyên. Đã có cái gốc mưu đồ quá lớn Bá Tánh muôn dân Bách Việt Bắc Văn Lang vì thế mà tin theo. Thế lực vô cùng vững chắc. Không như cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước ở thời Phù Đổng Thiên Vương. Các Bộ Lạc Bách Việt Văn Lang nổi lên đòi trự trị chỉ là ảnh hưởng Văn Hóa Phương Bắc không có thống nhất tổ chức. Mạnh ai nấy xưng Vua, xưng Chúa. Còn cuộc nổi dậy của Cha Con Doãn Thường là có âm mưu từ trước, đường đi nước bước  điều có sự tính toán chu đáo nội cái việc mua Quan bán Tước ở Bắc Văn Lang không ai phát hiện ra. Nội sơ Con Cháu dòng họ của Việt Tế Gia có hơn mười Quan Tri Huyện. Một Qua Tri Phủ. Chưa nói đến Con Cháu của Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn có đến năm Quan Tri Huyện. Cho thấy dòng họ Vũ, dòng họ Triệu có âm mưu từ trước phải nói là rất lâu đời nhưng không tài nào phát hiện được. Khi phát hiện được thời Bắc Văn Lang đã về tay Cha Con Doãn Thường phải nói là một cuộc loạn tặc phản loạn tài tình hết sức chu đáo. Chỉ còn cách là dốc toàn lực lượng đánh một trận.

Một là lấy lại Bắc Văn Lang.
Hai là: Hầu Lạc Vương dừng lại không nói. Hùng Việt Vương Tuân Lang hỏi sao khanh không nói tiếp. Hầu Lạc Vương nói Bệ Hạ cho phép thời Thần mới nói. Hùng Việt Vương nói Khanh cứ nói. Hầu Lạc Vương nói Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ Cha Con Doãn Thường biết lợi dụng hình ảnh Quốc Tổ che chở cho mình một lá bùa hộ mệnh không ai phá nổi. Cha con Doãn Thường, thường nói CÁC VUA HÙNG CÓ CÔNG DỰNG NƯỚC dân tộc Bách Việt Văn Lang chúng ta cùng nhau giữ lấy nước. Dân chúng Bắc Văn Lang cho rằng Cha Con Doãn Thường mới thật sự làm theo di chí quốc Tổ. Nên ra sức bảo bọc như tường đồng vách sắt khó mà đánh bại ngay được. Chỉ còn cách là chờ thời cơ thuận lợi chiếm lấy lại Bắc Văn Lang ngoài hai cách đó không còn cách nào hơn. Hùng Việt Vương nghe xong nổi giận quát. Khanh có biết Bắc Văn Lang là vựa lúa lớn nhất nước Văn Lang Không ?  Mất Bắc Văn Lang là có nghĩa chúng ta suy yếu mà còn trở nên nghèo đói khó mà trở nên hùng mạnh được nữa.

Hầu Lạc Vương sợ hãi nói Thần đã biết tội. Hùng Việt Vương nói bằng mọi giá phải chiếm lại cho bằng được Bắc Văn Lang không để mất Bắc Văn Lang được. Bằng ra lệnh cho Văn Khánh đại Tướng Quân Thống Soái thống lãnh 30 vạn quân đến Vân Giao Châu kết hợp với quân Kỳ Thọ đang cố thủ tại Quang Hải Châu kết hợp với quân Thạch Trung Sơn  đang cố thủ tại Bạch Lang Châu.  Kết hợp với quân Anh Kỳ đang cố thủ  tại Tiên Châu kết hợp với quân Thục An Kim đang cố thủ tại Âu Tây Châu. Tiến đánh thẳng ra Bắc dốc toàn lực bắt Cha Con Doãn Thường đêm về trị tội. Thần Tuân Lịnh.

Đây nói về Thống Soái Văn Khánh thống lãnh 30 vạn quân đến Vân Giao Châu. Tức thời chia làm ba đạo quân. Đạo quân cánh Tả do Chủ Tướng Lê Quang thống lãnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Âu Tây Châu. Đạo quân cánh hửu do Huỳnh Trung Kỳ thống lãnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Quang Hải Châu.  Còn đạo quân chủ lực Văn Khánh thống soái thống lãnh 14 vạn quân tiến thẳng đến Bạch Lang Châu. Tiên Châu.

Đây nói về Thục An Kim đang là Tri Phủ Âu Tây Châu nghe hung tin Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang thời vô cùng kinh hãi tình thế vô cùng nguy cấp liền huy động lực lượng quân binh trấn giữ cố thủ tại Âu Tây Châu. Chỉ hơn bảy ngày sau ở trên thành bốn Cha Con Châu Phủ Thục An Kim nhìn ra hướng Bắc thấy quân phản loạn chia ra nhiều đạo quân tiến về Âu Tây Châu cờ xí gươm giáo trùng trùng không bao lâu thời quân phản loạn bao vây thành Âu Tây Châu. Đứng trên thành nhìn xuống thấy cờ Vua Lưu Việt. Cờ Vua Phù Việt. Cờ Vua Lỗ Việt. Cờ Vua Nô Việt. Cờ Vua Ngung Việt. Cờ Vua Mân Việt. Cờ Quân Việt Trung Nguyên. Quân phản loạn bắc loa kêu gọi mở cửa thành đầu hàng bỏ Hùng Vương. Theo Việt Vương. Châu Phủ Thục An Kim đứng trên thành chửi. Các ngươi đều là con cháu Tiên Rồng. Con Dân Bách Việt Văn Lang cùng chung một Quốc Tổ Vua Hùng. Sao đi theo Cha Con Doãn Thường làm Phản. Các Vua Việt nghe Thục An Kim nói thế làm thinh. Triệu Công Phi ngựa tới nói. Họ Thục An kia ngươi nói sai rồi kẻ thức thời, mới là trang anh hùng tuấn kiệt phải nhận biết thời thế ngọn gió Nam chấm dứt thời ngọn gió Bắc ra đời. Hiện nay tình thế thay đổi nước Văn Lang không còn như thời Quốc Tổ Vua Hùng, mà là nhà nước Văn Lang Vương, Quan, Thần, Tướng ai vì túi nấy. Bỏ bê dân chúng, mặc cho lê dân khốn khổ. Vua Hùng chỉ lo chọn cho nhiều cung phi mỹ nữ. Để cho Vương Quan lộng hành làm bậy đánh mất hết lòng tin muôn dân. Cơ Trời đã báo hiệu khí số niên đại Vua Hùng mấy nghìn năm đã sắp kết thúc rồi còn gì. Theo Ta nghĩ chim khôn tìm cây mà đậu, người khôn tìm chúa mà thờ. Khí số nên đại Vua Hùng đã hết. Cơ Trời ấn định Việt Vương ra đời. Các Vua Việt hùa theo Tướng Soái nói đúng chúng tôi là dân Bách Việt. Đương nhiên phải đi theo Việt Vương không theo Hùng Vương nữa. Thục An Kim nghe những lời trái tai đó quát lên như sấm nổ. Thằng Triệu Công hổn láo kia ai thời không biết lý lịch của ngươi. Nhưng đối với ta thời ta quá rõ. Tổ Tông ngươi là Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn khi còn ở Nước Tấn đã mưu phản giết vua Di Cao Tấn Linh Công. Đến đời Tấn Cảnh Công. Đồ Ngạn Giả  lật ngược tình thế. Dòng Họ Triệu  các  ngươi bị tru di cửu tộc. Quân Binh truy sát. Ông Cha ngươi trốn qua Bắc Văn Lang sinh sống Vua Hùng không xử tệ với dòng Họ Triệu các ngươi. Cho nhập quốc tịch Dòng Họ Triệu các ngươi trở thành dân tộc Văn Lang. Các ngươi không những không biết ơn manh tâm theo cha con Đoãn Thường làm phản tội đáng chết. Với cái tội phản loạn thời chết chẳng được toàn thây rồi. Còn xúc phạm uy linh Quốc Vương  tội  đáng tru di cửu tộc. Bỏ gươm giáo xuống tự sát kết liễu đi. Cha Con Triệu Công, nghe Châu Phủ Thục An Kim chửi hay quá sợ lay động lòng quân sĩ. Bằng hét lớn thời đại ngày nay kẻ thắng thời là Vua, kẻ thua là Giặc Ai thờ chủ nấy. Trên chiến trường chỉ có sức mạnh gươm đao giáo mác. Kẻ nào mạnh thời thắng, kẻ nào yếu thời thua. Kẻ thắng chính là vua, người thua chính là giặc. Đó là lẽ thường ở đời mau đầu hàng Việt Vương Tế Gia đi thời sống chống lại thời chết.
Về sau thơ rằng :
Bách Việt Văn Lang chẳng còn gì
Chỉ còn tranh bá giết nhau đi
Chính nghĩa gì đâu rời Cội Gốc
Lạc Nguồn lạc Cội khốn với nguy
Cội Nguồn Văn Hóa đã mất đi
Hiểm họa đao binh nạn kể gì
Chiếm tranh loạn lạc đầy sóng gió
Đồng Bào tàn sát có kể chi
Thương ôi lạc Cội đành tan nát
Văn Lang binh lửa dậy trời mây
Kiếp nạn trùm lên đầu dân chúng
Văn Lang khốn khổ, khổ từ đây
Quốc Đạo Văn Lang đã mất rồi
Nước nhà loạn lạc khổ ôi ôi
Trước mắt u minh buông trùm xuống
Yêu Tinh Quỉ Dữ chúng nốt xơi
Anh hùng lạc đạo ngơ với ngác
Hiếu trung, trung hiếu lạc chơi vơi
Thắng Vua, thua Giặc hề một lũ
Thi nhau chém giết máu đầu rơi.
**************

HẾT QUYỂN 1 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét