QUỐC
BẢO CHÂN KINH
VĂN
LANG CHIẾN SỰ
SỬ
TRUYỆN
PHÙ
ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
THIÊN
ẤN - THIÊN BÚT
GÒ
HỘI
ĐỨC
PHỔ - QUẢNG NGÃI
2013
NGUYỄN
ĐỨC THÔNG
QUYỂN
5
THÁNH
CHÚA RA ĐỜI
Niềm vui lớn nhất của
bà Phù Thị là nhìn thấy người con mà mình mang trong bụng bấy lâu, cậu bé dễ
thương khôi ngô tuấn đến lạ lùng, lòng dâng trào một niềm vui vô hạn.
Lòng vui sướng
nhìn con bé bổng
Mắt sáng ngời
như tỏa hào quang
Khôi ngô tuấn
tú dễ thương
Trời cho non
nước Văn Lang kỳ tài
Bà ôm Gióng vào
lòng triều mến
Tình thương con
lai láng trào dâng
Cảm ơn trời đất
non sông
Cho bà một đấng
hùng anh sau nầy.
Nói về: Bà Phù Thị cứ
mãi ôm Gióng vào lòng, mà quên đi cả đói khác, từ đó bà Phù Thị không đi bắt ốc
mò cua nữa, chỉ ở lều chăm sóc con thơ, nhờ tích trử được khá gạo qua những
ngày gian khổ bắt ốc mò cua, chim thú thi nhau đêm thật nhiều hoa quả đến, để
bà ăn có sửa nuôi con. Suốt cả năm liền bà chỉ lẩn quẩn túp lều tranh, dân làng
không thấy bà đi bắt ốc mò cua, cũng như xuống làng đổi cua ốc lấy gạo, thời
nghĩ bà đã bị cọp ăn rồi, sói nuốt rồi, cũng không ít người rơi giọt lệ, vì cảm
thương số phận đây gian truân, xót xa đến thế. Một hôm có người nói, nầy anh ba
anh tư, nầy chị bốn chị bảy, chúng ta là những người yêu thương bà Thị nhất,
nhưng không dám bao che giúp đở vì sợ quy ước của làng, nay bà chết hay
còn sống chưa rõ, sao chúng ta không đến đó một chuyến cho biết. Có người nói
nơi bà ở có nhiều thú dữ lắm, chỉ có thợ săn mới dám đến đó mà thôi, chú tư chú
ba không thợ săn là gì, người kia trả lời, thế là họ âm thầm tìm đến khu rừng
bà Thị đang ở, nơi bà Thị ở là nơi cỏ dại hoang vu rừng núi cây cối rậm rạp,
không bao lâu thời họ cũng tới khu rừng xa xa nhìn thấy túp lều tranh. Lòng họ
bổng nổi lên bao nổi niềm thương cảm, cho con người bất hạnh, nổi hiu quạnh cô
đơn, một mình nơi rừng núi, sống nơi hoang vu không một bóng người, không hiểu
bà còn sống hay đã chết. Và họ quá bất ngờ chợt nghe một giọng hát ru con từ xa
vọng lại, có người nói hình như là tiếng bà Thị.
À ơi con ngủ đi
con
Cho con mau lớn
trông nom rừng già
Con lên non núi
cỡi voi
Xuống đồng cỡi
hạt bay qua ruộng đồng
Trở thành những
bậc anh hùng
Cứu dân cứu
nước giống nòi Rồng Tiên.
Có người nói bà sanh
rồi, bà đang ru con thì phải, và họ đi lần đến túp lều tranh. Nghe tiếng người
nói, bà liền im tiếng hát, và cũng nhận ra tiếng nói của những người tìm đến
đây. Những người rất thương yêu bà, và thường hay cho gạo bà,vừa bước vào túp
lều tranh họ vui mừng reo lên kìa em bé. Thì ra bà sanh con nên không đi mò cua
bắt ốc xuống làng đổi gạo. Họ thi nhau xem mặt em bé, người nào người nấy đều
kinh ngạc, vì em bé quá khôi ngô tuấn tú, nhất là cặp mắt sáng long lanh, chị
tư liền nói con Trời có khác, tôi mà có được đứa con như vầy thời khổ mấy tôi
cũng chịu. Chị bảy nói kìa cặp mắt em bé giống cặp mắt Ông Đổng, chú tư chú ba
nói tôi tin lời nói của chị Thị khi chị nói trước dân làng, quả đúng là con Ông
Đổng, chị bảy nói Ông Đổng đầu thai chớ con Ông Đổng gì, kẻ nói qua người nói
lại người nào cũng có cái lý của mình, nên không ai chịu cho mình là đoán sai.
Nhìn em bé quá kháu khỉnh không ai muốn xa rời, chừng nghe tiếng hổ gầm thời ai
nấy đều kinh hãi, họ liền từ giả Mẹ con Phù Thị trở về làng. Cũng từ đây tiếng
đồn lan xa, bà Phù Thị sanh ra Ông Đổng con, khôi ngôi tuấn tú lạ đời, một đồn
mười, mười đồn trăm, trăm đồn nghìn. Thế là khắp nơi dân làng bị đánh thức sự
tò mò, nhất là những người không gây ác cảm đối với bà, họ rũ nhau kéo tới một
ngày một đông, họ đem cho Phù Thị đủ thứ, bà khỏi phải xuống đồng mò cua bắt ốc
đổi lấy gạo nữa.
Nói về Đức ông Đức bà,
nghe bà con làng xã bàn tán ca ngợi, Phù Thị có phúc sanh ra bé trai vô cùng
kháu khỉnh, tôi chưa chưa từng thấy người nào khôi ngô tuấn tú như thế, hai con
mắt sáng như sao, quả đúng là một nhân tài sau nầy, quả đúng là con Ông Đổng,
hay Ông Đổng đầu thai cũng vậy, tôi mà có được người con như thế thời sung
sướng biết bao. Đức ông Đức bà vô cùng ăn năng qua lối cư xử không mấy sáng
suốt của mình, cũng bỡi gì không chịu nổi sự tai tiếng mà bỏ đi một cơ hội,
hiếm có Trời cho. Nhất là Đức ông cứ tiếc nối mãi, nước đổ khó mà hốt lại, tuổi
đả già lại sanh ra nhiều phiền nảo buồn rầu ăn năng không bao lâu sanh bịnh qua
đời. Đức ông qua đời không bao lâu, nỗi cô đơn một mình Đức bà cũng theo ông
lìa trần thế, dân làng ai cũng thương Ông Bà, nhưng cũng đáng tiếc cho Ông Bà,
tiếng lành, tiếng kính Ông Bà không còn như trước nữa, thay vào đó là tiếng ác,
tiếng dại.
Rừng công Đức
trăm năm chăm bón
Chỉ một mồi lửa
nóng đốt tiêu
Tiếng lành đồn
khắp bao nhiêu
Biến thành
tiếng ác đổi thay vận đời.
Nói về bà Phù Thị, nghe
tin Đức ông Đức bà qua đời ôm mặt khóc lóc, dù gì đi nữa Đức ông Đức bà không
coi bà là người ở, mà chỉ coi như con, ơn Đức ấy không sao đền đáp đáp được, bà
Phù Thị cầu nguyện cho Đức ông Đức bà sớm siêu sanh về Trời. Túp liều không
vắng lặng vì có nhiều người đến thăm, nhưng lòng bà đau đớn, vì nỗi thương nhớ
Đức ông Đức bà, cũng đúng thôi, vì bà Phù Thị sống với Đức ông Đức bà trên 20
năm, tình nghĩa ấy không dễ gì phai mờ được, nhìn bà khóc như vậy, những người
đến thăm nói, Đức ông Đức bà đối xử với bà không được tốt, thương khóc mà làm
gì, kìa em bé nhìn bà kìa, tên em bé là gì, ai nấy chờ nghe câu trả lời của bà.
Bà Phù Thị trả lời, tôi đặc tên cho con là Phù Đổng, vì quê tôi ở làng Phù, quê
con ở làng Đổng. Dân làng đến thăm viếng nghe bà Phù Thị đặc tên cho con hay
làm sao, ai nấy cũng khen, có người nói chị kết hợp bộ ba đặc tên cho con hay
quá, có người nói tôi phải thầm phục cho chị Phù, chị kết hợp làng Phù của chị,
làng Đổng của con chị, cọng với tên Đổng Cha không lồ, ôi cái tên vừa đẹp vừa
Linh Thiên, Phù Đổng nghe hay quá. Có người nói tên Phù Đổng Linh Thiên quá, vì
động đến Ông Đổng Long Đế Khổng Lồ Cha, không ai dám gọi đâu, chi bằng xốm cà
là xốm Gióng, thôi đặc cho em một tên phụ là Gióng, ai nấy cũng cho là quá
phải, từ đó tên bé Gióng lan truyền khắp nơi. Gióng vẩn lớn bình thường như bao
em bé khác, nhưng điều khác lạ ở đây là đã gần ba năm mà Gióng không cười không
nói, ngoài ăn uống ra gióng không muốn chơi đùa với ai cả. Những người đến thăm
viếng thiếu kiên nhẫn, cho đây là điềm chẳng tốt đẹp gì, niềm tin đối với bé
Gióng ngày càng càng giảm sút, tiếng đồn lan ra dần dần cũng ít người đến. Bà
Phù Thị không lấy đó làm buồn, sự đời là thế, nghe Ông Đổng con thời ai cũng
đến, vì con Trời con Thánh, chừng khi nhìn không phải thời ai ai cũng dần dần
bỏ đi.
Có quyền có lực
có uy
Nghìn non vạn
núi người ta cũng tìm
Sa cơ khốn khổ
cùng đường
Ở trong đô thị
ai mà thấy chi.
Buổi chiều thu tuy rừng
núi chưa chìm trong vắng lặng, nhưng lòng bà Phù Thị đã chìm trong nỗi
buồn, cảnh nơi đây vốn là u tịch, lại thêm cuộc đời đơn chiếc.
Lòng buồn cảnh
có vui đâu
Cảnh buồn người
lại âu sầu cô đơn.
Đúng thôi ngay cánh
chim kia, khi chiều tắt đã vội vã trở về, thế mà còn ta, ta về đâu nhĩ, thân
nghèo lại bị người ta ruồng bỏ, xa lánh.
TRỞ
LẠI QUÊ LÀNG
Bà Thị nhìn con rồi nói
thầm hãy đến một nơi khác đi con, nơi mà hai mẹ con mình không ai biết đến, vì
không muốn làm phiền đến ai nữa, bà bồng con đến sống dưới bóng cây cổ thụ,
cách nơi ở chỗ bà khá xa, trên một cái gò nổi giữa đầm. Nơi đây có nhiều hoa
quả, dưới đầm thật nhiều cua ốc, bà no đủ qua ngày, các Nàng Tiên lại xuất
hiện, tắm rửa cho Gióng, và thường nói với Bà, GIÓNG là Thiên Long Vương xuống
trần đầu thai, sau nầy lớn lên đánh giặc Ân cứu nước. Hơn ba năm GIÓNG cứ nằm
yên hết chỏng tre giờ đến chỏng đá, bà Thị nhìn con mà trong lòng vô cùng
thương cảm, lâm râm khấn rằng.
Con là Long Đế
giá lâm
Cớ sao con mãi
nín câm thế nầy
Bây giờ non
nước nầy đây
Giặc Ân xâm lấn
ôi nầy khổ dân
Con ôi hãy nói
cười lên
Con mau chóng
lớn mà đi diệt thù.
Lời cầu khấn Mẹ Gióng vừa xong, Thời
GIÓNG mở to đôi mắt, tỏa ra hai đạo hào quang, cất tiếng kêu Mẹ đầu tiên vang
lên như sấm, làm chấn động đến núi rừng, làng bản. Đến lúc đó GIÓNG mới
rời khỏi chỏng đá, nói với bà Thị rằng, hãy trở về làng sống với dân chúng. Nói
về bà Phù Thị khấn vái xong liền thấy Gióng mở to hai con mắt hai đạo hào quang
tỏa ra sáng ngời, bà lấy làm kinh dị, chừng nghe Gióng gọi Mẹ làm chấn động cả
núi non làng bản, bà vô cùng mừng ỡ reo lên, con đã nói cười được rồi con của
ta bà ôm Gióng vào lòng. Gióng để cho Mẹ lắng dịu qua cơn xúc động, liền nói
hãy trở về với dân làng đi Mẹ, dân làng đang trông đợi, kiếp nạn đã hết. Đây
nói về Huyện Tiên Du trúng mùa một cách kỳ lạ, nhất là hai làng, làng Phù, và
làng Gióng, cũng như xốm cà, lúa thời trổ hai bông triểu hạt, ngô khoai xanh
tốt trúng mùa lạ kỳ, nhất là vườn cà dân làng trúng mùa chưa từng thấy, dân
chúng Huyện Tiên Du đang thu hạch trúng mùa lấy làm vui sướng vô cùng, cho là
điềm lành Trời đãi, Ông Đổng đã ban cho dân chúng trúng mùa, họ liền nhớ đến
Ông Đổng con, không hai mẹ con bà Thị hiện bây giờ đang ở nơi đâu. Bổng
dân chúng thấy trên bầu trời, nhiều đàng chim bay khắp Huyện Tiên Du hát
rằng.
Thánh Gióng về
làng, Thánh Gióng về làng
Kìa hai mẹ con,
không bao lâu sẽ đến
Hãy mau tiếp
đón
Thánh gióng về
làng
Hãy mau tiếp
đón
Thánh Gióng về
làng.
Đàn chim cứ bay trên
bầu trời ca hát như thế, dân chúng nghe theo kéo đến Làng Gióng đông như ngày
hội, rồi ra khỏi làng đi đón hai mẹ con Gióng. Dân chúng vừa kéo nhau ra khỏi
làng, thời thấy voi, hổ, sư tử, đại bàng, chim điêu đưa Mẹ con Gióng về làng,
dân chúng thấy voi, cọp, sư tử, chim điêu, có người sợ đến ngất xỉu, Gióng nói
dân chúng không có gì phải sợ, tiếng nói như sấm chấn động cả núi non làng bản.
Đàn voi, đàn hổ, đàn sư tử, đàn chim điêu, không tiển Mẹ con Gióng về làng nữa,
mà quây trở lại về rừng, dân chúng giờ đây tuyệt đối tin Gióng chính là Ông
Đổng đầu thai, bằng thi nhau mà lạy và gọi bé Gióng là Thánh Gióng.
Trời thương
Bách Việt sơn hà
Từ trong thảo
mãng sanh ra Kỳ Tài.
Dân làng khắp nơi tiếp
đón Mẹ con Gióng vô cùng rầm rộ, để chuộc tội ngày xưa lầm lỗi xử oan cho bà
Thị, ông Quan trưởng làng Lạc Điền, dẩn cả nhà đến tạ tội, và xin nguyện cùng
dân làm làm nhà cho bà Thị ở. Mẹ con Phù Thị được dân làng khắp nơi sùng kính
kẻ gốp công người gốp của chỉ trong vòng một ngày thời có một ngôi nhà khang
trang sạch đẹp, dân làng nấu cơm dân lên cho Mẹ con Gióng ăn. Gióng nói ta sắp
đi đánh giặc Ân, dân làng hãy cho ta ăn thật no, ta mới đủ sức đánh giặc Ân
được, dân làng nói Thánh cứ ăn thật no. Nhưng lạ thay Gióng ăn cơm với cà hết
nồi nầy sang nồi khác mà vẩn không thấy no. Dân làng kinh hãi ăn như thế nầy
thời cơm gạo lấy đâu ra ăn cho đủ, dân làng thấy Gióng mau lớn một cách kỳ lạ,
chỉ trong vòng ba ngày mà đã cao lớn như đứa trẻ mười tuổi, chuyện kỳ lạ nầy
đồn ầm lên khắp Huyện Tiên Du, dân chúng thi nhau gánh cơm gánh gạo, gánh cà
đến nấu cho Gióng ăn. Nhất làng Phù, quê bà Phù Thị, cùng làng Đổng thi nhau
dâng cơm dâng cà cho Đổng ăn. Chỉ trong vòng có mấy ngày mà tiếng đồn lan đến
Kinh Thành.
Xốm Gióng bừng
lên Đấng Kỳ Tài
Danh rền vang
động đến bên tai
Vua Hùng sai sứ
xem hư thiệt
Văn Lang kỳ
tích rạng trời mây.
TRIỀU
ĐÌNH
Trời cho Bách
Việt Việt Sơn Hà
Lạc Hồng nòi
giống sanh ra Kỳ Tài.
Nói về Hùng Vương thứ
6, Hùng Huy Vương, (Pháp Hải Lang) 961 đến 893, trước Công Nguyên. Gặp thời
binh đao máu lửa nổi lên khắp Bắc Văn Lang, phần thì giặc nội loạn, nhiều bách
tộc Bắc Văn Lang nổi lên đòi tự trị, tự xưng Vua, xưng Chúa, nổi lên chiếm lĩnh
từng vùng, làm đau đầu cho triều đình. Nhất là Hùng Huy Vương, ăn không ngon
ngủ không yên, ra sức dẹp yên nội loạn nhưng không được, trở thành cảnh nồi da
nấu thịt, Bách Việt Bắc Văn Lang tàn sát lẩn nhau, Đây là cảnh đầu tiên xảy ra
trên đất nước Bắc Văn Lang, nguyên nhân là bỡi hấp thụ nền văn hóa phương Bắc,
đi theo chiều hướng của phương Bắc, nổi lên đòi tự trị chia ra nhiều nước nhỏ,
không ai chịu dưới quyền ai, dẩn đến thôn tính lẫn nhau, trở thành cảnh Bách
Việt nồi da nấu thịt, dân chúng đồ thán khốn khổ vô cùng, cảnh chết chóc xảy ra
hằng ngày, lọt vào âm mưu của nhiều thế lực phương Bắc, chờ cho Bắc Văn Lang
suy yếu là chúng đưa quân xâm lược. Và điều đó cũng đã đến.
Hùng Huy Vương, đã lấy
làm đau đầu cho tình cảnh nội loạn Bắc Văn Lang chưa giải quyết xong, thời quân
Ân, quân Hồ, quân Hung Nô, đã tràn qua xâm lược. Với thế mạnh của ngoại xâm
tràn qua Bắc Văn Lang như nước lở, tiêu diệt sạch những ông Vua Việt mới nổi
lên đòi tự trị, đây là điều đáng mừng cho nước Văn Lang, nhất là Hùng Huy
Vương. Nhưng quân xâm lược không chỉ chiếm lấy Bắc Văn Lang, mà muốn nuốt trọn
nước Văn Lang, một thứ giặc vô cùng đáng sợ, lại hết sức tàn bạo, chúng đi đến
đâu thời dân Văn Lang trở thành nô lệ thảm khốc đến đó, chúng vơ vét sạch chẳng
chừa một thứ gì, cảnh sợ hãi làm cho dân Văn Lang ăn ngủ không yên.
Nước non binh
lửa dậy khắp nơi
Dân chúng khổ
sai hận ngập trời
Móng vuốt sói
lang loài ác quỹ
Xốm làng thê
thảm chúng nuốt xơi.
Hùng Huy Vương, đưa
quân chống trả nhưng đều thất bại, hết Tướng tài, bằng ra cáo thị cầu hiền tài
khắp đất nước ai có tài thời ra cứu nước, sẽ được phong Quan Chức lớn,
không ít người ra cứu nước nhưng tất cả đều đi vào thất bại. Tin thất trận dồn
dập báo về Triều Đình, làm Hùng Huy Vương càng thêm lo lắng, lập đàn cầu Trời,
cầu Tổ ngày đêm không dứt.
Thỉnh thoảng
nàng mây tự ngẩn ngơ
Quê hương
binh lửa tự bao giờ
Khắp nơi tràn
ngập mùi chết chóc
Xốm làng vắng
ngắt cảnh xác xơ
Hồn nghe rét
buốt luồn trong gió
Quê gầy, làng
úa, xốm héo khô
Nước non tan
tóc quân giặc xéo
Tràn ngập hung
tin nát cơ đồ.
Ngày nào cũng vậy Triều
Thần đi dự hộp đầy đủ, Quan Văn Quan Võ đủ mặt, lúc nào cũng bàn kế sách chống
giặc Ân, có lẽ các Quan Văn Võ cũng đã hết mưu kế, nên mấy ngày nay không ai
đưa ra kế sách gì mới. Hùng Huy Vương, lấy làm buồn phiền, nhưng rồi cũng phải
hỏi các Quan Văn Võ có kế sách gì mới không? các Quan chỉ biết im hơi lặng
tiếng. Khi ấy có một vị Quan Lạc Thư chuyên coi về sổ sách, bước ra tâu rằng.
Bẩm Quốc Vương, Bệ Hạ: Thần nghe ở Huyện Tiên Du có một cậu em tên là GIÓNG,
nói sẽ đi dẹp giặc Ân, theo Thần nghĩ Quốc Vương Bệ Hạ nên cho mời em bé ấy đến
ban cho ấn lệnh đi chống giặc Ân. Triều Thần nghe Quan Lạc Thư tấu trình như
vậy thời cười ô lên. Hùng Huy Vương hỏi các khanh cười chuyện gì, các Quan trả
lời, các Quan trả lời.
Muôn tâu Quốc Vương Bệ
Hạ: Quan Lạc Thư nghĩ giặc Ân toàn là trẻ con chắc, nên mới đề cử chuyện lạ đời
như vậy, Tài giỏi như Nguyên Dực, Nguyên Minh, như Cao Sơn, Cao Hải, đành phải
bó tay thất trận, xin thêm 20 vạn quân nữa may ra mới chống trả lại ngăn bước
tiến quân Ân. huống chi chỉ là một trẻ con, lời đồn nầy chỉ là khích lệ
tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm mà thôi, xin Bệ Hạ minh xét. Hùng Huy Vương
nghe các Quan tâu cũng có lý, ý định cho qua không bàn tới nữa. Bổng có một vị
Quan Lạc Hầu lên tiếng.
Bẩm Quốc Vương, Bệ Hạ:
Theo Hạ Thần nghĩ lời Quan Lạc Thư cũng có lý, lúc này là lúc cần người tài ra
giúp nước, dù người đó là ai, bà già, trẻ con, người dân bình thường mà nổi
tiếng như vậy, thời cũng nên xem xét, thực hư, Hạ Thần sẽ đảm nhiệm việc nầy
tới làng Đổng xốm Gióng để xem hư thực ra làm sao, thế là Vua Hùng giao nhiệm
vụ cho Quan Lạc Hầu Thượng Thư. Đây nói về Quan Lạc Hầu Thượng Thư, đến Huyện
Tiên Tu nghe dân chúng đồn ầm khắp nơi, Gióng là người Trời có khác ăn hoài mà
chẳng thấy no chỉ trong vòng ba ngày Gióng cao lớn một cách kỳ lạ. Quan Lạc Hầu
Thượng Thư đi gần đến làng Gióng thời thấy dân chúng kẻ khiêng gạo người khiêng
cà, tới xốm Gióng tấp nập. Quan địa phương Lạc Điền, nghe có Quan Thượng Thư từ
Triều Đình đến, liền tiếp đón tử tế. Hành lễ xong, Quan Lạc Điền hỏi, bẩm Quan
trên Quan trên đến làng, xốm nghèo khổ nầy chẳng hay có chuyện gì? Quan Lạc Hầu
Thượng Thư nói, ở đây có chuyện Thánh Gióng thật sao?
Bẩm Quan lớn, quả là
đúng như vậy, Thánh Gióng chính là Ông Đổng Khổng Lồ đầu thai, Ông ăn dữ lắm có
lẽ Ông ăn hết sạch lúa gạo dân chúng mất. Quan Thượng Thư càng nghe càng kinh
khiếp, sau đó Quan làng Lạc Điền, dẫn Quan Lạc Hầu Thượng Thư đến gặp Gióng,
khi ấy Gióng không phải là trẻ con, mà là một thiếu niên. Quan Thượng Thư vừa
đến chứng kiến thấy Gióng vừa ăn hết mấy chảo cơm, thời quả lời đồn không sai.
Gióng nghe Quan làng giới thiệu vị Quan mới đến là Quan Lạc Hầu Thượng Thư, vị
Quan lớn thuộc hàng bậc nhất bậc nhì trong Triều, ai nấy nghe xong cũng đều
kinh hãi, Gióng như không nghe lời giới thiệu đó, chỉ thi lễ mời vị Quan Thượng
Thư ngồi, vị Quan Thượng Thư không dám khi dễ đáp lễ rồi cùng ngồi. Vị Quan
nóng lòng không chờ đợi lâu lên tiếng hỏi, hỏi tới đâu Gióng trả lời thông suốt
đến đó, vị Quan đến giờ nầy mới thật sự kinh hãi, liền vái lạy Gióng, cầu xin
Gióng hãy cứu lấy nước non.
Ta lâm phàm xuống trần
là để cứu nước cứu non trả lại sự bình yên cho dân chúng, nhưng ta có những yêu
cầu Triều Đình phải chu cấp cho thật đầy đủ. Quan Thượng Thư nói Thánh
yêu cầu gì, Thần về sẽ tâu lên Quốc Vương.
Gióng nói cấp cho ta
thật nhiều lương thực, nuôi đủ mười vạn quân trong một tháng, vận chuyển đến
đây, mười tấn thép, mười tấn sắt, một nghìn thợ rèn giỏi, năm nghìn lượng vàng,
một nghìn con ngựa chiến, nghìn cung tên tốt, hàng vạn mũi tên. Nhớ là sắt,
thép, vàng, không thiếu một cân, thợ rèn không thiếu một người, ngựa phải đủ
không thiếu một con, cung, tên, nhất nhất đều đúng như vậy, phải đúng là trong
vòng nữa tháng tất cả đều có đủ không thiếu một món nào, thời ta sẽ đánh tan
giặc Ân, trong vòng nữa tháng. Vị Quan Thượng Thư nghe Gióng nói
tới đâu lấy làm kinh hãi đến đó, liền từ biệt Gióng cấp tốc về Kinh Đô trình
tấu lên Vua Hùng.
Sau có thơ rằng:
Quan về Quan
nói với Vua
Xuất kho mười
tấn thép nguyên ta dùng
Chọn cho nghìn
vị thợ rèn
Đưa thêm mười
tấn sắt, đồng, cho mau
Kim loại sạch
đã luyện tôi
Đưa thêm nửa
tấn vàng nguyên ta dùng
Cấp cho lương
thực thật nhiều
Để ta no
bụng tiến hành diệt Ân
Ngựa nghìn con,
vạn vạn cung tên
Để cho chiến sĩ
xông lên diệt thù
Hãy về tâu với
Triều Đình
Không nên để
thiếu dù là nửa cân
Trong vòng một
tháng không hơn
Thời ta đánh
bại quân Ân tơi bời
Giặc Ân khiếp
vía kinh hồn
Hết mong xâm
lấn cõi bờ Văn Lang
Nước non trở
lại bình an
Thái bình thịnh
vượng giàu sang yên lành
Mau mau không
được trể chầy
Trong vòng nửa
tháng phải thời có ngay.
Nói về Lạc Hầu Quan
Thượng Thư lấy làm vui mừng vì chứng bao chuyện lạ của Gióng, bằng nhanh chóng
trở về sáng ngày cho kịp buổi Chầu Vua. Hôm nay là ngày đẹp trời không còn u ám
như ngày hôm qua, ánh bình minh rực rỡ như báo hiệu nước non sắp yên bình trở
lại, các Quan đi chầu rất sớm. Trên bệ Rồng Hùng Huy Vương nói Trẩm thấy hôm
nay khỏe khoắn lạ kỳ có lẽ là điềm lành xuất hiện chăng, các Quan cũng đồng
thanh nói, muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ chúng Thần cũng cảm thấy tâm hồn nhẹ
nhàng, không hiểu là có điềm lành gì. Hùng Huy Vương kiểm lại các Quan thời chỉ
thiếu Quan Lạc Hầu Thượng Thư vì còn bận công tác đi đến làng Gióng chưa về,
Hùng Huy Vương nói không hiểu ở làng Gióng hư thật thế nào, trẩm nóng lòng quá,
Hùng Huy Vương vừa dứt lời thời thấy Quan Lạc Hầu Thượng Thư bước vào, Hùng Huy
Vương lấy làm mừng nói rằng Quan Thượng Thư quả thật Linh Thiên, vừa nhắc đến
thời có ngay. Các Quan vô cùng hồi họp chờ lời xác minh của Quan Thượng Thư về
đứa trẻ nơi làng Đổng xốm Gióng, với vẻ điềm nhiên của Quan Lạc Hầu Thượng Thư,
làm cho các Quan càng thêm sốt ruột, Hùng Huy Vương nói Quan Thượng Thư sao bửa
nay ông tấu trình chậm thế. Đến lúc nầy Quan Thượng Thư mới tấu trình rằng.
Muôn Tâu Quốc Vương Bệ
Hạ, quả xốm Gióng đã xuất hiện Thánh Gióng, cả Triều Đình ai nấy cũng đều ồ lên
có Thánh Gióng xuất hiện thật sao.
Quan Thượng Thư nói
nhưng sự yêu cầu Thánh Gióng không phải là nhỏ, Hùng Huy Vương nói Thánh Gióng
cần bao nhiêu vạn quân, bốn mươi vạn hay năm mươi vạn. Muôn Tâu Quốc Vương Bệ
Hạ, Thánh Gióng không yêu cầu thứ đó.
Nghe lời nói của Quan
Thượng Thư, không chỉ các Quan Văn Võ, mà ngay cả Hùng Huy Vương cũng bất ngờ
phải nói là vô cùng kinh ngạc, Hùng Huy Vương ngơ ngác Thánh Gióng yêu cầu thứ
gì, quá mức của triều đình ta chăng, Quan Thượng Thư nói có thể nói là quá mức,
nếu không quyết tâm thời khó mà thực hiện được. Hùng Huy Vương nóng ruột nói,
khanh cứ nói đại ra triều đình ta có đáp ứng được không. Đến lúc nầy Quan Lạc
Hầu Thượng Thư mới đi vào vấn đề chính, kể lại tất cả những gì tai nghe mắt
hấy, ai nấy cũng lấy làm kinh dị cho sự xuất hiện một Đấng Trời sanh Thánh Đế
nầy, cứu lấy vận mệnh nước Văn Lang.
Hùng Huy Vương nghe
xong thời cười nói, những thứ yêu cầu đấy đối với nước Văn Lang ta thời chỉ là
hạt cát, yêu cầu như thế thời có gì là khó đâu. Muôn tâu Quốc Vương, nếu chúng
ta không quyết tâm thời khó mà được sự yêu cầu đó chỉ trong vòng nữa tháng.
Hùng Huy Vương hỏi sự
yêu cầu đó là gì, ông hãy nói mau cho ta nghe.
Muôn tâu Quốc Vương Bệ
Hạ: Thánh Gióng yêu cầu Bệ Hạ xuất mười tấn thép, bảy tấn sắt, ba tấn
đồng, với một nghìn thợ rèn giỏi, cấp tốc đến làng Đổng, chỉ trong vòng nửa
tháng phải có, không được chậm trể, thép, sắt, đồng, vàng, không được thiếu một
cân.
Hùng Huy Vương nghe sự
yêu cầu nầy liền ngớ người ra, vì vận nước như dầu sôi lửa bỏng, phải thực hiện
cho bằng được, bằng cho mời quan giữ kho thép đến hỏi còn được bao nhiêu, kho
thép là kho báu vật Quốc Gia, dùng để chế tạo ra các vũ khí sắc bén, không có
thép nước nào sánh lại được thép nước Văn Lang. Quan giữ kho tâu, muôn tâu Quốc
Vương Bệ Hạ, trong kho chỉ còn tám tấm, Hùng Huy Vương liền tức tốc cho
thu hồi thép khắp đất nước, chọn một nghìn thợ rèn giỏi cùng khắp đất nước, tất
cả đều chuyển đến làng Đổng, trong vòng mười ngày, nếu chậm trể chém đầu. Thế
là các quan mỗi người một việc, ra sức ngày đêm không nghĩ và tất cả đều hoàn
thành sau mười ngày.
THAO
LUYỆN BINH MÃ
Lúc bấy giờ làng Gióng
người ta như hội kẻ tới người lui tấp nập, GIÓNG giờ đây tuy mặt còn non
trẻ, nhưng cao lớn như người thanh niên vạm vỡ oai phong lẩm liệt, ra sức chỉ
huy một nghìn thợ rèn chế tạo rèn đúc áo giáp thép, mão thép, áo giáp ngựa
thép, roi thép, áo giáp sắc, áo giáp đồng, áo giáp ngựa sắt, áo giáp ngựa đồng.
Nói về nghìn thợ rèn
ngày đêm tốc lực, rèn đúc mài dũa chế tạo ra bộ áo giáp người, giáp ngựa, như
vảy con tê tê, tiếng búa đập chan chát, dậy làng dậy xốm dậy núi dậy non, tiếng
mài dũa rào rào nghe mà kinh mà khiếp
Tiếng rèn đúc
âm vang mấy cõi
Tiếng rào rào
mài dũa kinh thiên
Ầm ầm dội đến
quân Ân
Làm cho khiếp
vía hồn kinh hãi hùng.
Đây nói về khắp Bộ Vũ
Ninh, cũng như các Bộ các Châu, các Quận, các Huyện xa gần lân cận Bộ Vũ Ninh,
nghe tin Thánh Gióng xuất hiện chuẩn bị xuất quân đi đánh giặc Ân, thời khắp
nơi, nhân tài kéo đến lũ lượt xin gia nhập đội quân của Gióng. Nói về ở Hội Xá
Gia Ninh, có nhiều đoàn trẻ chăn trâu chân bò, chúng thường chơi nhau lập trận,
rước cờ bông lau, đánh trống da ếch số đông lên đến cả trăm, gõ thanh tre, chơi
tập trận.
Nhìn bọn trẻ
chơi nhau tập trận
Trống dập dồn
quân tiến quân lui
Gõ thanh tre
bao vây quân dịch
Tiếng xung
phong rền núi dậy non
Cỡi trâu các
bụi tung bay
Cỡi bò tay phất
cờ lau vù vù
Reo hò trống
dậy trống dồn
Thanh tre rôm
rả vang lừng đồng quê.
Tiếng la hét của bọn
trẻ dậy non dậy núi, quân Ân thua rồi, quân Ân thua rồi. Cùng lúc ấy nhiều đoàn
trẻ chăn trâu chăn bò, xa gần Hội Xá kéo đến số đông lên đến cả trăm,
chúng hội nhau gia nhập đoàn quân của Gióng. Thế là hơn mấy trăm trẻ chăn trâu
chăn bò kéo đến làng Gióng xin gia nhập đội quân của Gióng. Gióng chấp nhận, và
cho luyện tập binh mã, mỗi lần GIÓNG phất cờ điều khiển trận pháp, tức thời
đàng trẻ chăn trâu, chăn bò lớn lên một cấp, từ thiếu niên vụt lớn thành thanh
niên tráng sĩ, thịt bắp vai u sức mạnh vô địch. Gióng lúc nầy tuy mặt vẩn còn
trẻ con, đã biến thành một tráng sĩ, mình cao hơn trượng, oai phong lẩm liệt.
Gióng cho người khiêng giáp người giáp ngựa, gươm đao giáo mác đến, trang bị
cho đội quân chăn trâu, chăn bò, đã biến thành đội quân dũng sĩ. Đội quân dũng
sĩ, trang bị ngựa mặt giáp sắt, giáp đồng, người mặt giáp sắt, giáp đồng,
với thanh đại đao trong tay sáng ngời, các dũng sĩ đồng lên ngựa diễn trận, dân
chúng xem coi kinh hoàng khiếp vía, ánh đao tuôn ra lạnh cả người, dân chúng la
lên ngựa sắt, người sắt, khiếp quá, khiếp quá, đoàn quân ngựa sắt lao tới lao
lui nhanh như cuồng phong vũ bảo. Dân chúng hò reo đội quân bách chiến bách
thắng, đội quân bách chiến bách thắng.
Nói về làng Môi,
làng Mòi, những trai tráng khỏe mạnh cũng xin gia nhập đội quân Gióng, trong đó
có ba anh em nhà Ba Chạ, có sức khỏe lạ đời, một tay cầm lấy ba trăm cân như
cầm lấy một hòn đá nhỏ.
Nói về một số người
thường câu cá trên các dòng sông nghe tin GIÓNG chuẩn bị xuất quân đánh giặc
Ân, liền kéo đến xin gia nhập quân binh của Gióng. Những người thợ săn khắp nơi
xa gần cũng thế, kéo đến xin gia nhập quân binh của Gióng.
Đây nói về làng Y Na,
có một người đàn bà ăn ở phúc Đức, ba đời đều chửa bệnh cho dân, khắp nơi xa
gần ai cũng mến phục, người đàn ấy tên là Cao Thị.
Một hôm có một cái cầu
vồng năm sắc hiện ra trên bầu trời, và nhắm thẳng người đàn bà sa xuống, bà Cao
Thị liền thấy trong mình khác lạ. Từ đó bà mang thai, đến ngày sanh nở bà sanh
ra một bọc, sanh ra năm người con trai. Năm anh em khi đến 12 tuổi, bà Cao Thị
qua đời, nhưng nhờ gia tộc bà Cao Thị cũng khá giả nên năm người con
không lấy gì làm khổ nhọc, năm anh em cùng trong một bọc mau lớn lạ đời nầy tài
năng vô cùng, một người tên Kim, một người tên Mộc, một người tên Thủy, một
người tên Hỏa, một người tên Thổ. Hùng Huy Vương ra cáo cầu hiền khắp đất nước,
năm anh em xé bản cầu hiền, tức thời Quan dán bản cáo thị báo cho Vua Hùng
biết. Hùng Huy Vương cho người đến khảo sát tài năng, thấy năm anh em trong một
bọc sanh ra, quả là tài năng vô cùng võ nghệ cao cường thần thông quảng đại,
bằng dân tấu sớ lên Vua Hùng, phong cho Quan tước, cũng như theo sự yêu
cầu của năm anh em, nhà Cao Thị, là gia nhập vào đội quân của Gióng. Các bô lão
trong làng Y Na, lại tiến cử 35 người con trai khỏe mạnh tài giỏi nhất làng,
theo năm anh em Ngũ Tài. Cả làng mổ trâu, mổ bò, mổ dê, mổ lợn, gà vịt tế lễ
trời đất, khao thưởng năm anh em Ngũ Tài, cùng 35 người con trai khỏe
mạnh, lên đường đánh giặc Ân xát nhập với quân Gióng nơi làng Đổng.
HỘI
TỤ TINH HOA
Khi Gióng trở về làng
Đổng tuyên bố đánh giặc Ân, những người tin Gióng theo Gióng đầu tiên, là ba vị
Kỳ nhân tên là ông Trấn, ông Trâu, ông Bạch Sam, ở núi Tiên, theo sự yêu cầu
của Gióng, một nghìn thợ rèn dốc sức ngày đêm không nghĩ hơn nửa tháng thì hoàn
thành đến lúc nầy GIÓNG mình cao hơn trượng cao lớn như người Khổng Lồ, Gióng
hú lên một tiến làm chấn động núi non rừng thẳm, thời từ xa xôi có tiếng ngựa
hí đáp lại, trên không trung liền xuất hiện một con ngựa Thần bay tới, to lớn
gấp mười lần con ngựa thường, to lớn hơn một con voi to, ngựa đáp chân xuống
đất làm rung rinh nhà cửa, dân làng kinh hãi khiếp sợ. Hỡi dân làng giờ xuất
trận cũng gần đến dân làng hãy cho quân binh ăn thật no. Riêng nấu cho ta đầy
bảy nong cơm, cà muối ba nong.
Sau có thơ rằng.
Bảy nong cơm,
ba nong cà
Uống một hơi
nước cạn đà khúc sông.
Nói về các thợ rèn chỉ
rèn đúc lắp ráp theo lời chỉ bảo của Gióng, chớ không động đậy gì nổi những đồ
của Gióng dùng, chỉ cần roi thép của Gióng cũng nặng hơn hai tấn dài to vót như
một cây tre, mấy chục thước, không có quân binh nào khiêng cho nổi. GIÓNG bước
đến nhiều mãnh áo giáp ngựa, mỗi mảnh giáp nặng gần cả tấn, thế mà Gióng xách
lên nhẹ như không, như xách con gà con, ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạc
vía. GIÓNG ráp xong các mảnh giáp lên mình ngựa xong, biến con ngựa Thần thành
con ngựa thép sắt, tức thời hơi thép lành lạnh tuôn ra đến khiếp người. GIÓNG
mặt giáp xong liền biến thành con người thép sắt khổng lồ, Gióng bước tới cây
roi thép dài to vót như cây tre, cuối người xuống cầm lên một cách nhẹ nhàng,
như cầm một cây roi tre chăn bò, với một sức mạnh chưa từng thấy bao giờ, Gióng
múa roi một cái tức thời cuồng phong nổi dậy ầm ầm, cát bay đá chạy, dân chúng
nhìn thấy sức mạnh Thần Kỳ của Gióng, có người sợ muốn xỉu, dân chúng nhìn
Gióng cỡi lên con ngựa thép, ánh thép sáng ngời ngời tay cầm roi thép, phóng
lên yên ngựa tức thời đất đai liền sụt lún xuống, con ngựa dẩm chân làm rung
rinh nhà cửa, dân chúng có người sợ đến muốn chết ngất, vì quá khiếp. GIÓNG vổ
vào lưng ngựa, tức thời con ngựa phun ra lửa sấm sét nổi lên, Gióng phi ngựa
một vòng, ngựa phi tới đâu, thời thành ao tới đó, kình phong tuông ra ầm ầm làm
cho cây cối ngã đổ ai nấy đều kinh hồn bạc vía. Gióng phi ngựa trở về chỗ cũ,
bọn trẻ thấy ngựa Gióng vẩn còn chỗ trống hở, liền lấy bông lau dắc vào cho
kín. Gióng chưa xuất quân hình như chờ đợi ai đó, khi ấy dân làng nghe tiếng hổ
gầm, voi hú, dậy trời như chờ Gióng xuất trận là lao theo. Bổng dân làng thấy
mấy người nông dân làm ruộng, mấy người nông dân trồng tre, đến gia nhập đạo
quân, GIÓNG nói tất cả đều đến đầy đủ rồi, chuẩn bị xuất quân Gióng liền vỗ vào
hông ngựa con ngựa hí lên rung trời chuyển đất, mồm phun lửa rực đỏ cả bầu
trời. GIÓNG chỉ roi về hướng Bắc thét lớn, tiến quân, tức thì đoàn quân hổn
hợp, cuồn cuộn lao về hướng Bắc. Dân chúng thấy quân Gióng đi nhanh như cơn bão
vượt qua núi, không cần đường mòn, vượt qua sông không cần thuyền bè. Sau có
thơ rằng:
Quân Gióng là
quân nhà Trời
Vượt qua sông
núi lạ đời như không
Quân binh cuồn
cuộn bão dông
Tiến về phương
Bắc quyết tâm diệt thù.
DIỆT
THÙ
Lại nói về Nguyên Minh,
bị quân Ân phá trận ngũ hành đánh bại, quân binh chết vô số kể, kéo tàn quân
chạy về Vân Châu, tránh sự truy sát của quân Ân. Cánh quân Cao Hải bị quân Hung
Nô đánh bại cũng chạy về Vân Châu, Nguyên Minh, Cao Hải gặp nhau trong tình thế
vô cùng bi đát, bại trận thê thảm, than thở mãi không thôi, nhưng sau đó lấy
lại khí thế cũng cố lại lực lượng, cố thủ Vân Châu quyết một còn một mất với
chúng, Nguyên Minh viết thư báo cáo tình hình quân địch khó mà chống cự cho lại
trình lên Hùng Huy Vương, xin viện binh, chờ cơ hội đánh trả, cũng như ngăn
bước tiến quân Ân không cho tiếng vào Trung Văn Lang.
Nội dung thư như sau:
Quân giặc nhiều
vô số
Tướng giặc lại
tài cao
Quân binh như
ma quỹ
Khó thắng biết
là bao
Quân binh đang
cố thủ
Địa phận tỉnh
Vân Châu
Viện binh như
cứu hỏa
Mới ngăn nổi
giặc Ân
Tiến vào Trung
Văn Lang
Xin Quốc Vương
minh xét.
Nguyên Minh, cùng Cao
Hải, đang bàn kế sách ngăn chặng quân Ân tiến vào Trung Văn Lang, và cho người
liên lạc với Nguyên Dực, thời có quân binh vào báo, Bẩm chủ soái quân Thánh
Gióng sắp đến Vân Châu rồi, Nguyên Minh nói mau đến như thế sao, Cao Hải nói
nghe nói quân Gióng là quân nhà Trời, không phải là quân Triều Đình, ta mau gia
nhập vào đội quân của Gióng, tiến đánh quân Ân.
Anh em cùng ra
trận
Hiếu trung nổi
tiếng nhà
Quyết một phen
tử chiến
Vì dân chết
cũng là
Diệt thù quân
cướp nước
Quyết tử tiến
xông pha
Rồng Tiên niềm
bất khuất
Nối gót chí ông
cha
Cứu nước cứu
non kể chi là
Tình riêng gói
lại chí xông pha
Một mất một còn
quân cướp nước
Trải lòng trung
hiếu diệt yêu ma.
Nguyên Minh, Cao Hải,
thống lãnh gần mười vạn quân đón quân Gióng đến gia nhập. Nguyên Minh, Cao Hải
nghe tiếng quân binh duy chuyển ầm ầm, nghe cuồng phong ù ù thời lấy làm kinh
hãi, loáng một cái quân Gióng đã tới nơi. Nguyên Minh, Cao Hải vô cùng kinh
hãi, vì thấy một đạo quân người sắt, ngựa sắt, đạo quân thiết giáp đi sau, hơi
thép tuôn ra lạnh cả người. Nguyên Minh, Cao Hải, tới lễ lạy Thánh Gióng, gia
nhập gần mười vạn quân vào quân Gióng tiến đánh giặc Hồ ở Kiến Giao Châu. GIÓNG
vổ vào lưng ngựa chỉ roi về hướng Kiến Giao Châu tức thời ngựa Thần hí lên rung
trời chuyển đất, đoàn quân Gióng lao đi như cơn bão lốc, Nguyên Minh, Cao Hải
chỉ còn biết thúc năm nghìn kỵ binh lao theo đoàn quân của gióng mà thôi, còn
tất cả thời lẻo đẻo theo sau, đoàn quân loáng một cái là mất hút.
Đây nói về Hồ Nghi
Vương quyết lấy thành Kiến Châu cho bằng được chiếm trọn Tây Bắc Văn Lang, với
hơn 20 vạn quân, Hồ Nghi Vương chỉ cần khôn khéo là chiếm được ngay, nhưng Châu
Tiên, con của Quan Trung chính Châu Ân quá lợi hại, lại có một vị Tướng vô cùng
tài đó là Cao Khang nên Hồ Nghi Vương chưa thể chiếm thành ngay được, và rồi Hồ
Nghi Vương cũng tìm ra kế để phá thành. Trận chiến bắc đầu mở màng, Hồ Nghi
Vương dùng độn tẩm dầu bắn vào thành, rồi bắn lửa vào đốt cháy, hỏa công đánh
trước, bộ binh leo tường đánh sau, xạ binh bắn yểm trợ, còn một đạo quân khác
mượng thế liên hoàn ròng rọc công phá cửa thành, Thành Kiến Châu chỉ còn chờ
chết. Tiến reo hò quân Hồ dậy trời dậy đất, Hồ Nghi Quân kêu gọi đầu hàng lần
cuối, đầu hàng thời còn mạng sống, chống lại thời chết không còn một mạng. Châu
Tiên quát con quỉ Hồ Ly kia, con cháu Tiên Rồng thà chết quyết không chịu đầu hàng.
Hồ Nghi Vương trợn mắt quát! Hãy sang bằng Kiến Châu cho ta, tức thời tiếng tù
thổi lên rền trời rền đất, quân Hồ chuẩn bị tấn công. Thời bổng nghe đất trời
rung chuyển, quân Hồ bổng thấy người sắt, ngựa sắt bổng xuất hiện lao tới đánh
rối xả tới tấp vào quân Hồ, quân Hồ bị đánh trúng văng đi tứ phía cả người cả
ngựa nát như tương. Hồ Nghi Vương kinh hồn bạc vía thấy ngựa sắt Khổng Lồ lao
tới phun lửa đốt quân Ân cháy đen, người sắt Khổng Lồ mỗi lần múa roi thép sắt
lên là mỗi lần quân Hồ toi mạng cả trăm lớp nát như tương lớp bay như rác, Hổ,
Voi, Sư Tử , lao tới xé xác, cảnh tượng xảy ra khiếp vía kinh hồn. Hồ Nghi
Vương khiếp quá, ra lệnh cho quân binh bắn tên xối xả vào ngựa sắt, người sắt,
nhưng nào có ăn thua gì, ngựa sắt người sắt cứ lao tới, đánh quân Hồ ngã
rạp lớp lớp đạp nhầu quân Hồ nát như tương. Hồ Nghi Vương hãi hùng hóa
phép bay lên không chạy trốn, nhưng nào có kịp, Thánh Gióng chỉ roi lên không
một cái, một tia hào quang bắn lên Hồ Nghi Vương liền tan xương nát thịt, 20
vạn quân Hồ chỉ trong chốc lác, tiêu tan thây nằm la liệt.
Sau có thơ rằng:
Nghe động đất
đùng đùng ập tới
Nghe cuồng
phong bão tố đến nơi
Ầm ầm vó ngựa
khiếp kinh
Ầm ầm roi sắt
rung rinh đất trời
Quân hổn hợp
Thánh Thần xuất thế
Càn quét nhanh
khủng khiếp kinh hồn
Quân Hồ bị đánh
tơi bời
Lớp thời nát
thịt, lớp thời cháy đen
Lớp thời bị cọp
nuốt ăn
Kinh hồn bạc
vía hết phương sống còn.
Lại nói về, Quan Trung
Chính, Châu An, Châu Tiên, Cao Khang, quyết tử chiến với quân Hồ cho đến
phút cuối, bổng nhìn thấy xa xa ở phương Nam xuất hiện một đạo quân, không biết
là quân địch hay quân ta, chỉ loáng một cái đoàn quân tốc hành đã đến nơi. Châu
Tiên la lớn quân người sắt, Cao Khang, Châu An, thấy đoàn quân người sắt lao
vào 20 vạn quân Hồ như vào chỗ không người, giống như hàng nghìn cái chổi sằm
quét rác, quân Hồ bị quét bay lên tứ tung, trông thấy mà kinh hồn bạc vía, nhất
là người sắt Khổng Lồ, ngựa sắt Khổng Lồ, tên, lao, giáo, kiếm, lao tới như
mưa, nhưng người ngựa Khổng Lồ không hề hấn gì cả, ngựa phun lửa dữ đốt quân Hồ
cháy đen cháy thui, cứ mỗi lần người sắt Khổng Lồ vung roi là cả trăm người tan
xác. Châu Tiên, đứng trên thành la lớn Thánh Gióng Thánh Gióng, kìa cờ đề Thánh
Gióng, quân nhà Trời đã xuất hiện.
Quân Trời kinh
khiếp làm sao
Tướng Trời
xuống thế cứu dân sống còn
Cứu non cứu
nước trường tồn
Đánh tan yêu
quỹ hết còn xâm lăng
Kinh hồn bạc
vía từ đây
Văn Lang có chủ
giặc bây đừng hòng
Xâm lăng không
có ngày về
Thây phơi chật
đất ê hề thây phơi
Quân Hồ bị đánh
tả tơi
Làm phân cho
đất ôi thôi còn gì
Đây là bài học
nhớ đời
Cho quân xâm
lược nhớ thời nhớ ghi.
Châu Tiên nhìn
thấy cờ chủ soái Nguyên Minh, nói Cha nhìn có quân chủ lực Văn Lang nữa kìa.
Thánh Gióng nói tiếng vang như sấm, mau mở cổng thành đem quân tri sát quân Hồ.
Nói xong Thánh Gióng chỉ roi về Ninh Châu tiến, thế là đoàn quân Gióng như cơn
bão nổi lên ầm ầm lao đi, loáng cái mất dạng, Châu An nhìn theo khiếp vía quân
Trời có khác.
TIÊU
DIỆT QUÂN ÂN
Đây nói về Nguyên Dực
thua trận kéo tàn quân chạy về thành Ninh Châu, cố thủ, quân Ân kéo đến bao
vây, nhưng không tấn công liền, chờ cho quân binh trong thành Ninh Châu kiệt
sức vì đói mới ra tấn công.
Than ôi non
nước nạn luôn luôn
Cũng bỡi chúng
dân lạc Cội Nguồn
Âu bỡi số Trời
nên đành thế
Đông tàn xuân
đến nạn qua truôn
Còn lòng trung
hiếu còn non nước
Đựng dậy hồn
thiên, dậy anh linh
Chờ cơ, chờ
vận, chờ trời sáng
Rồng Tiên phất
phới, rạng anh minh
Độc lập tự do
tung đôi cánh
Yên bình hạnh
phúc trải xuân Thiên.
Đây nói về Nguyên Dực,
bị Sát Sát quân Ân đánh bại rút tàn quân chạy về thành Ninh Châu, đóng cổng cố
thủ trong thành, không bao lâu thời quân Ân kéo đến bao vây, có trên 25 vạn
quân. Nguyên Dực, Dương Điền, Hầu Thái Công, Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân,
cùng nhiều Tướng Lĩnh khác nữa ở trên thành nhìn thấy quân Ân đông như vậy khó
mà đánh cho lại. Hơn nữa Sát Sát thần thông pháp thuật vô biên, thành Ninh Châu
quân binh chỉ hơn sáu vạn, nhưng nếu bị bao vây hơn nửa tháng sẽ dẫn đến chết
đói, quân Ân không đánh cũng thua. Quân Ân bao vây hơn mười này rồi, chỉ cần
thêm năm ngày nữa sẽ dẫn đến quân binh kiệt sức vì đói. Nguyên Dực, Hầu Thái
Công, Lạc Đại Vương, lấy làm lo lắng vô cùng. Bạch Tướng Quân nói, trước sau gì
cũng chết, thay gì lúc còn đang no, đang đêm mở cổng thành ra quyết chiến với
chúng một trận chết cũng vui sướng. Dương Điền nói Bạch Tướng Quân nói phải
lắm, chết đói sao cho bằng đánh với một trận chết no cũng vui. Nguyên Dực nghe
cũng có lý, nói thôi thì tận trung Báo Quốc vậy, được lệnh mở cổng thành tấn
công quân Ân, các Tướng bàn bạc sôi nổi và thống nhất, một giờ đêm nay là mở
thành tấn công vào quân Ân tận trung Báo Quốc, coi như chúng ta ăn bửa cơm cuối
cùng, bằng cho mổ bò mổ lợn, gà vịt khao đải quân binh, bửa ăn cuối cùng từ giả
trần gian.
Một trận chiến
lẫy lừng sông núi
Khí hùng anh có
chết cũng vui
Tiên Rồng nòi
giống uy linh
Sợ gì quân giặc
tiến lên diệt thù
Nhìn dân chúng
giặc dày giặc xéo
Cảnh ngựa trâu
giặc chém giặc đâm
Làm cho máu
chảy non sông
Quê hương binh
lửa núi non hận thù
Hãy tiến lên
chiến sĩ đồng bào
Đánh cho tan
tác quân thù tác tan.
Nhìn trời về chiều ánh
nắng đã ốm vàng hồng, không bao lâu nữa mặt Trời sẽ lặng về non Tây, các Tướng
Lĩnh thấy tâm hồn khoan khoái nhẹ nhổm không còn nặng nề như mấy bửa trước đây.
Bổng Bạch Tướng Quân la lên xem kìa xem kìa chuyện gì thế quân Ân kéo binh đến
nữa chăng, khói bụi mịt mù ở tận xa xa, loáng một cái đoàn quân đã lao tới gần
quân Ân, tiếp theo đó là một trận chiến kinh hồn, quân Ân bị đánh bay lên như
hốt đá mà ném bay lên tứ hướng nhà Trời, quân Ân kinh hoàng khiếp thi nhau chạy
toán loạn.
Ngựa sắt dồn
chân chuyển đất trời
Đạp nhầu quân
giặc nát tả tơi
Ầm ầm roi sắt
rền sông núi
Muôn vạn giặc
Ân mạng tơi bời
Kinh hồn bạc
vía quân cướp nước
Thịt xương tung
tóe xác pháo rơi
Cuồng phong gào
thét roi vun vút
Quét sạch xâm
lăng giặc đi đời.
Các Tướng trên thành la
lớn người sắt, ngựa sắt, kìa người Khổng Lồ, tay múa roi lớp lớp quân Ân tan
xương nát thịt bỏ mạng, ngựa sắt phun lửa đỏ rực bầu trời, Lạc Đại Vương la lớn
cờ Thánh Gióng, quân binh nhà Trời, Nguyên Dực cũng la lớn, kìa quân binh
chủ lực Văn Lang cờ chủ soái Nguyên Minh phất phới, Nguyên Dực như đứng tim
nhìn sức mạnh của quân Gióng đánh quân Ân như đánh loài chuột. Đây nói về Sát
Sát, đang hừng hực khí thế chiến thắng, thời nghe tiếng ầm ầm từ xa vọng lại,
loáng một cái nghe quân Ân gào thét sợ hãi chạy toán loạn, Sát Sát la lớn
chuyện gì thế chuyện gì thế.
Nói về Hồ Man Quân, Hồ
Mị Hoa, nhìn thấy người sắt từ hướng Tây lao tới xơi sạch quân Hồ. Hồ Mị Hoa
hóa phép dông tố nổi lên ầm ầm đánh vào quân người sắt. Không ngờ quân người
sắt chẳng hề hấn gì, lao nhanh tới chém sạch quân Hồ, Hồ Mị Hoa sợ quá cỡi ngựa
Thần phi lên không trốn chạy, nhưng không còn kịp nữa năm con ngựa sắt bay lên
không bao vây, đồng loạt tấn công cả con ngựa Thần cùng Hồ Mị Hoa bị chém đứt
ra nhiều mảnh, quân Ân quân Hồ, nhìn thấy cảnh ấy chỉ còn biết dẩm đạp lên nhau
bỏ chạy, năm con ngựa sắt bay lên không giết chết Hồ Mị Hoa, chính là năm anh
em Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Cùng lúc ấy Sát Sát thấy người sắt Khổng Lồ
đánh quân Ân lớp lớp tơi tả, liền niệm chú phóng kiếm Thần lao tới giết chết
người sắt Khổng Lồ, Gióng không hề sợ hãi chút nào kiếm Thần lao tới Gióng đưa
roi đánh vào kiếm Thần một cái tức thời một tiếng nổ long trời, kiếm Thần nát
ra từng mảnh vụn, Sát Sát sợ quá la lớn bắn chết người sắt Khổng Lồ đó cho ta,
thế là hàng nghìn mũi tên bắn vào người sắt Khổng Lồ, nhưng nào có ăn thua gì,
Gióng lao đến đâu quân Ân lớp lớp bỏ mạng đến đó. Sát Sát hóa phép liên miên,
nào yêu tinh quỹ dữ hiện ra, cũng không làm gì được Gióng, bị Gióng múa roi
đánh yêu tinh quỉ dữ khiếp hồn, Sát Sát hóa cuồng phong ầm ầm cũng không làm gì
được Gióng. Sát Sát sợ quá phi ngựa lên không trốn chạy, không ngờ con ngựa sắt
Khổng Lồ bay theo, Gióng đánh cho một roi cả người lẫn ngựa nát như tương.
Nguyên Dực cùng các
Tướng Lĩnh trên thành Ninh Châu há hốc mồm mà nhìn, cứ tưởng như là một giất
chiêm bao. Chừng nghe nói hãy mở cổng thành truy sát quân Ân chạy trốn, và cho
người đem đồ ăn thức uống dâng lên cho đoàn quân của Gióng, người lên tiếng đó
chính là Nguyên Minh em của Nguyên Dực. Nguyên Dực như tỉnh giất mơ, liền mở
cổng thành cho quân đuổi theo truy sát quân Ân đang chạy trốn tứ hướng, 25 vạn
quân Ân giờ đây chỉ là những đống thịt, những cái xác không hồn, la liệt chồng
chất lên nhau, cuộc chiến kết thúc thần tốc như thế, không ai dám nghĩ tới, nói
gì tận mắt chứng kiến.
QUÉT
SẠCH QUÂN ÂN
Sử đời chép lại
để coi
Xâm lược rốt
cuộc chẳng qua lũ hề
Trò cười muôn
ức vạn đời
Ra gì một lũ
ngông cuồng xâm lăng.
Nói về quân Gióng sau
khi quét sạch 25 vạn quân Ân, thời được Nguyên Dực, Dương Điền, Hầu Thái Công,
Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân, đón rướt tất cả vào thành vì trời đã tối, các
Quan Tướng đều đến lạy Gióng, Lạc Đại Vương, cho người dâng lên đồ ăn thức uống
cho đoàn quân của Gióng, không ngờ đoàn quân của Gióng ăn mạnh quá, nốt sạch
khẩu phần của hơn sáu vạn quân, chuẩn bị cho bửa cơm tối, bửa cơm cuối cùng cho
trận chiến một giờ đêm. Nhất là Gióng ăn liền bảy nong cơm, ba nong cà muối,
làm khiếp đảm những người chứng kiến. Quân Gióng ăn no nê rồi đánh một giất
ngủ. Ông mặt trời đã thức dậy, ngày cuối cùng tiêu diệt giặc Ân, Tất cả quân
binh thành Ninh Châu suốt đêm không ngủ, vì chuẩn bị đồ ăn thứ uống cho đoàn
quân của Gióng ăn sáng trước khi lên đường đánh giặc. Quân dân thành Ninh Châu,
lại phải chứng kiến quân Gióng ăn uống khủng khiếp, nhất là Gióng nuốt sạch
mười nong cơm, năm nong cà. Nguyên Dực giờ đây đã gia nhập, vào đoàn quân của
Gióng những kỵ binh giỏi nhất đi theo Gióng quét sạch quân thù xâm lược, còn
tất cả binh lính đều ở lại thành Ninh Châu. Quân Gióng ăn uống no nê, chờ lệnh
Gióng xuất phát, Gióng cầm roi, leo lên lưng ngựa, roi Gióng vót nhọn dài mấy
mươi thước to dài như cây tre lồng ngà, nặng hơn hai tấn, Gióng chỉ roi về
hướng Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ, hét lớn tiến quân, tức thời con ngựa Gióng hí
lên vang động đất trời, mồm phun ra lửa dữ, dậm chân ầm ầm lao đi, quân Gióng
lao theo ầm ầm như cơn bão, loáng cái đã mất dạng, quân binh Ninh Châu
nhìn theo khiếp vía.
Đây nói về quân Ân,
quân Hung Nô, ngày đêm ráo riết, đánh chiếm các Châu Quận Huyện, hầu như gần
nuốt sạch Bắc Văn Lang. Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ sắp mất đến nơi quân Ân bao
vây lớp lớp trùng trùng, Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt
Yên, biết thế nào quân Ân cũng chiếm được Kinh Đô, nhưng thà chết không chịu
đầu hàng, cố thủ tử chiến. Nhất là Hùng Lang Công, vô cùng căm giận Giặc Ân,
xâm lược cướp nước, còn giết chết hai người con là, Hùng Tướng, và Hùng Điền,
nên ra lệnh cố thủ thành dù sắp chết đói đến nơi, dân chúng cũng như quân binh
đã lai rai chết đói, quân Ân hiểu rõ thời cơ đã chín mùi chỉ cần ra tay là
chiếm được được Kinh Đô, và ngày giờ đã quyết định, là tấn công vào Kinh Đô khi
lúc mặt trời lên, với hơn ba mươi vạn quân Ân bao vây Kinh Đô đông như kiến,
đao kiếm ngùn ngụt, ngựa hí vang trời, quân reo dậy đất.
Hùng Lang Công,
Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên, ở trên cung thành nhìn quê hương non
nước như nhìn lần cuối, tay nắm chặt thanh đao như nói thầm rằng hãy quyết tử
với chúng.
Nước Văn Lang
lửa thù soi giếng hận
Lũ quân thù, lũ
tán tận lương tâm
Lũ ngoại xâm,
nầy hỡi lũ ngoại xâm
Mi gieo rét,
bao ngục tù chết chóc
Giờ quyết tử,
ta sẳn sàng chiến đấu
Nguyện theo về,
với thế giới Cha Ông
Thân xác nầy,
trả lại với non sông
Giờ quyết tử,
quyết chiến quyết xông.
Nói về Hùng Lang Công,
Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên, nhìn mặt trời lần cuối trước khi vĩnh
biệt cõi trần. Tiếng còi khai trận, trên đài quan sát, Ân Mao Vương phất
cờ lệnh tấn công, tức thời nghìn nghìn thang dây lao tới bắt lên thành, có đội
quân xạ tiển yểm trợ bắn lên thành như mưa. Cùng lúc ấy từ phía Tây một cơn bão
lốc cuồn cuộn ập tới, tiếng vó ngựa ầm ầm vang rền trời đất, thoáng chốc đội
quân người sắt xuất hiện lao vào hơn 30 vạn quân Ân xơi ráo riết, quân Ân bị
đánh văng bay lên trời như giấy, kẻ bể đầu, người nát như tương, với chiếc roi
sắc dài mấy mươi thước, Gióng vung lên vù vù quân Ân bỏ mạng lớp lớp. Nghịch
Phong kinh hoàng khiếp vía cỡi ngựa bay lên không phóng đao Thần tới người sắt
Khổng Lồ, chỉ nghe nổ ầm ầm đao Thần nát vụng, Nghịch Phong niệm chú hóa phép
yêu tinh quỉ dữ hiện ra lao vào người sắt, ngựa Thần phun lửa đốt sạch, bổng
ngựa sắt bay lên không roi sắt đánh tới Nghịch Phong, Nghịch Phong múa kiếm lên
đở, nào ngờ một tiếng bộp dữ dội, Nghịch Phong cả người lẩn ngựa nát như tương,
Ân Mao Vương nhìn thấy kinh hồn bạc vía, Ân Mao Vương chưa kịp chạy trốn, thời
Gióng bay đến đánh một roi quan sát đài cao bảy tần, chỉ nghe ầm một tiếng kinh
thiên động địa quan sát đài nát vụng, Ân Mao Vương nát như tương. Roi sắt cũng
gãy làm ba khúc. Gióng dắc khúc roi còn lại vào lưng, phi ngựa tới bờ tre nhổ
lấy tre đánh vào quân Ân tơi tả chết la chết liệt, cây tre nầy hư nát, Gióng
lại nhổ cây tre khác, cứ thế hết cây tre nầy đến cây tre khác, quân Ân không
còn sống sót để mà trở về quê hương, xác quân Ân la liệt thành gò thành đống.
Không ai là không khủng khiếp cho trận chiến diệt quân Ân thần tốc nầy.
Về sau có thơ rằng:
Rầm rầm dậy đất
dậy trời
Cuồng phong bão
táp ầm ầm kinh thiên
Ngựa Gióng phun
lửa liên miên
Roi Gióng cuồn
cuộn đảo điên đất trời
Quân Ân lớp lớp
tơi bời
Cháy đen, nát
thịt, bể đầu, tan thây
Đùng đùng ngựa
dẩm quân Ân
Chôn vùi tan
xác còn chi cuộc đời
Quân Ân hồn vía
rụng rời
Xác văng tứ
phía rụng đầu sứt chân
Ào ào muôn trận
cuồng phong
Đường roi bão
táp cuốn phen quân thù
Đường roi cuồn
cuộn ù ù
Ầm ầm nện xuống
nát nhừ quân Ân
Quân Ân khiếp
vía hồn kinh
Ném gươm ném
giáo chui mình trốn chui
Lũ chuột trốn
chạy khắp nơi
Chạy đâu cho
thoát ôi thôi còn gì
Đáng đời lũ
giặc đáng đời
Ngông cuồng xâm
lược để rồi mạng toi.
Hùng Lang Công, Lạc
Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên, cùng quân binh trên thành ngơ ngác, quên
cả chiến đấu chừng thấy quân Ân từ trên thang dây nhảy xuống đất lớp chết lớp
gảy tay gảy cẳng, thời mới giật mình, thời quân Gióng đã biến mất lao về hướng
Đông thẳng đến thành Xích Linh, Hùng Lang Công nói Thánh Gióng người thiếu niên
Khổng Lồ, Quốc Tổ Thiêng Long Vương Sùng Lãm, đã hiện về cứu nước Xích Quỷ khỏi
rơi vào tay giặc.
Ai đời đánh
giặc lạ đời
Dùng tre thay
giáo tuyệt vời khó tin
Bờ tre khắp
chốn khắp nơi
Để cho Thánh
Gióng nhổ lên diệt thù
Tre thành roi
Thánh nhà Trời
Đánh cho quân
giặc rụng rời khiếp kinh
Tre thành gươm
giáo uy linh
Đánh cho quân
giặc hãi kinh khiếp hồn
Tre là biểu
tượng anh hùng
Giặc mà nhìn
thấy hãi hùng hoảng kinh.
(Quốc Tổ Thiên Long Vương Sùng Lãm,
là Quốc Tổ khai sanh ra nước Xích Quỷ, thời đại Kinh Dương Vương).
QUÉT
SẠCH HUNG NÔ
Đây nói về thành Xích
Linh quân Hung Nô chưa làm gì nổi, chỉ ở thế bao vây mà thôi, chờ cho quân Xích
Linh đói chết tự đầu hàng, quân Hung Nô sau những lần bại trận chỉ còn không
đầy 10 vạn, nay đã hồi phục trở lại lên đến 15 vạn, với tình cảnh nầy quân Hung
Nô như con hổ rình mồi. Chờ cho con mồi đói lã, lao tới ăn thịt không cần tốn
công mệt sức. Hung Nô Vương, cùng hai con là Hung Quân Liệt, Hung Đa Di, lấy
làm đắc ý, vì con mồi đã ở trong tầm tay. Ba cha con Hung Nô, đang hảm hiếp những
cô gái đẹp Bắc Văn Lang, chúng hảm hiếp hết cô nầy đến cô khác, rồi chúng quăng
ra cho binh lính hảm hiếp. Nhìn thấy cảnh ấy không ai là không sôi gan, cho
quân tàn bạo cướp nước. Chúng đang hả hê hảm hiếp những cô gái trẻ, bổng nghe
cuồng phong kéo tới ầm ầm, quân Hung Nô giật mình khiếp sợ, không hiểu là có
chuyện gì.
Đây nói về Lạc Kim
Tiên, trong lúc chợp mắt thời thấy Sư Phụ hiện về nói, khi mặt trời lên sẽ có
Thánh Gióng xuất hiện, đánh tan quân Hung Nô, giải thoát khiếp nạn cho Bắc Văn
Lang. Lạc Kim Tiên giật mình tỉnh giất không thấy Sư Phụ đâu cả, khi ấy trời
cũng sắp hừng sáng. Lạc Kim Tiên liền nói với cha, là Lạc Hầu Vương, cũng như
anh trai là Lạc Hồng Hầu, những gì Sư Phụ đã hiện về nói cho biết là quân Hung
Nô sắp bị đánh tan, khi Thánh Gióng xuất hiện, lúc mặt trời lên. Tin nầy được
lan truyền nhanh chóng khắp trong thành Xích Linh, binh lính cũng như dân chúng
kéo lên tường thành chờ đợi Kỳ Tích xuất hiện. Mặt trời đã lên cao, nhưng sao
chưa thấy Kỳ Tích xuất hiện, niềm tin đã bắt đầu lung lay. Bổng Lạc Kim Tiên la
lớn, khói bụi từ hướng Tây đã xuất hiện, Lạc Hầu Vương la lớn tới rồi, đoàn
quân Gióng đã xuất hiện, quân dân trên thành thấy Gióng cầm cây tre múa vù vù
đánh vào quân Hung Nô như cơn bão lốc quân Hung Nô bị đánh văng tứ tung lên
không như giấy, quân Gióng xơi quân Hung Nô như mèo xơi bầy chuột, chúng bị
đánh văng đi tứ tung, bể đầu, gãy chân, gãy tay, người thì nát như tương, người
thì bẹp lếp, chết la chết liệt thành gò thành đống, Kim Tiên thấy Thánh Gióng
như người Khổng Lồ nhưng mặt còn trẻ con, nhổ lấy tre đánh giặc không khỏi phì
cười, đúng là trò trẻ con có một không hai trên trần thế, chỉ trong phút chốc
quân Hung chết sạch, Hung Nô Vương cùng hai con bỏ mạng, Gióng đánh tan quân
xâm lược Gióng liền phi ngựa về hướng Nam mất hút, đoàn quân của Gióng cũng mất
hút theo, Nguyên Dực, Nguyên Minh bỏ lại quân binh Tướng Lĩnh theo chân Gióng,
chỉ còn lại quân Triều Đình, và những quân binh theo Gióng ra trận.
Anh tài hào
kiệt anh hùng
Cứu dân cứu
nước diệt nầy ngoại xâm
Giữ gìn độc lập
non sông
Để cho non nước
bình yên thái bình
Gương lành để
lại cho đời
Uy danh muôn
kiếp sáng ngời anh linh
Hiếu trung sách
sử chép ghi
Công lao cứu
nước sáng soi đời đời
Lời còn nhớ mãi
anh hào cứu dân.
Lạc Hầu Vương, Lạc Hồng
Hầu, Lạc Kim Tiên, Đinh Hoàng, Nguyên Thông, nhận ra Cao Hải. Nhất là Lạc Kim
Tiên vừa nhìn thấy Cao Hải thời lòng vui mừng không sao kể xiết, như vừa nuốt
phải một lạng sâm vào bụng, ra lịnh cho người mở cổng thành phi ngựa ra gặp Cao
Hải.
Nhìn thấy xuân
về sau gió đông
Nghìn hoa đua
nở đợi bướm ong
Xao xuyến tình
duyên lòng con gái
Bến đợi sông
chờ, khách qua sông
Đôi môi vừa hé
hôn làn gió
Cháy bổng hồn
xuân ấm tình nồng
Đa cảm phải
đành ôm nỗi nhớ
Bóng dáng người
tình mãi đợi trông
Lòng em như vạn
mùa xuân
Trời thu trong
vắt, biển đông dậy tình
Em nghe ngọt
lịm tâm hồn
Đa tình đầy ắp
biển trời nhớ thương.
Cao Hải, gặp lại Kim
Tiên cũng không kìm nỗi lòng xúc động, tưởng như là sẽ không còn gặp lại nhau
nữa, Cao Hải giới thiệu một số Tướng Lĩnh cho Lạc Kim Tiên, Lạc Kim Tiên thi lễ
chào hỏi xong, thời cũng vừa lúc. Lạc Hầu Vương, Lạc Hồng Hầu, Đinh Hoàng,
Nguyên Thông, vừa tới thi lễ đón rướt các Tướng Lĩnh vào thành, thiết đãi ăn
mừng chiến thắng cũng như bàn luôn việc Quốc Sự, chính đốn lại trật tự an ninh
Bắc Văn Lang, ra lệnh cho quân binh truy nả quân giặc còn đang chạy trốn, cũng
như ra cáo thị cho dân chúng, phải tuân theo pháp lệnh của nhà nước Văn Lang,
nếu ai không tuân theo sẽ bị xử trảm. Các Quan Tướng đang bàn việc Quốc Sự thời
có quân vào báo, có thư của Hùng Lang Công nơi Kinh Đô Xích Quỷ gởi tới. Nội
dung thư như sau: các Quan, các Tướng, các bộ, các Châu, các Quận, các Huyện,
cũng như các Quan Tướng Triều Đình về Kinh Đô hợp gấp, bàn nhiều việc trọng
đại. Theo công văn Bệ Hạ Hùng Huy Vương. Người viết thư Hùng Lang Công. Thế là
các Quan Tướng tức tốc lên đường đến Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ để dự hộp.
Đây nói về Nam Ninh
Xích Quỷ, Kinh Đô Bắc Văn Lang các Quan Tướng ra vào tấp nập, nhanh chóng đi
vào cuộc hộp chấn chỉnh lại Bắc Văn Lang đã trải qua một thời gian dài đi vào
hổn loạn, nhiều Bộ Lạc nổi lên đòi tự trị khắp nơi. Xưng Vua xưng Chúa, theo
trào lưu phương Bắc, Nhà Thương, Nhà Chu. Với chính sách khoang hồng của triều
chính Văn Lang, Hùng Huy Vương, Ân xá tất cả những tội lỗi, của những Bộ tộc
trong Bách Việt Văn Lang, có sự lầm đường lạc hướng, nổi lên đòi tự trị, gây ra
bao cảnh chết chóc, nồi da nấu thịt, làm cho dất nước suy vong. Nếu bộ tộc nào
có ý phản loạn, học đòi theo phương Bắc nổi lên xưng Vua, xưng Chúa, thời giết
chết không tha. Nhờ chính sách khoang hồng ân xá, không làm tổn hại những Bộ
Tộc gây ra tội lỗi trước đây, mà còn có chính sách nâng đở, nên được lòng dân,
nước Văn Lang vì thế bình yên thêm mấy trăm năm nữa, thái bình an lạc. (
Điều đáng tiết ở đây, nước Văn Lang thời bấy giờ văn hóa Cội Nguồn không còn
nên không lấy gì để dạy dân, mà chỉ dạy dân theo thể chế phong kiến, theo xu
thế phương Bắc, hết họa nầy nối liền theo họa khác, do phương Bắc thao túng làm
hại ).
PHƯƠNG
BẮC
Quân Ân lớp lớp
đi đời
Xác phơi chật
đất máu thành vũng ao
Đứa thời gãy
nát tứ chi
Đứa thời sứt
mũi tan thây bể đầu
Đứa thời bẹp
lép nát nhừ
Ôi thôi khủng
khiếp hãi hùng ôi thôi.
Những người theo Gióng
đánh giặc nghe đâu như là binh Tướng nhà Trời, chưa đầy ba ngày toàn bộ quân
Ân, quân Hồ, quân Hung Nô, coi như đã bị xóa sổ, thông tin chính xác nầy, là do
ba nước biên giới với Bắc Văn Lang, Tề, Ngô, Sở, kể lại trong nỗi kinh
hoàng. Chu Di Vương cùng các Quan Tướng nghe Thánh Gióng xuất hiện quét sạch
giặc xâm lăng chỉ trong vòng có ba ngày thời kinh hồn bạc vía, không còn dám
nghĩ đến mông xâm lăng nước Văn Lang nữa. Cũng từ đây phương Bắc nhà Chu cũng
dần dần đi vào đại loạn, nhất là sau thời Di Vương, đến Lệ Vương, Chu Lệ Vương
là vị Vua hôn quân mê muội bạo ngược vô cùng làm cho triều chính nội loạn bè
chia bè rẽ phái thôn tính lẩn nhau, Chu Lệ Vương bằng chạy trốn sang nước
khác,đến ở đất Trệ. Triều Đình nhà Chu không Vua các Quan Đại Thần trong Triều
chung nhau làm chính sự, hiệu là Cọng Hòa, tạm thời điều hành đất nước nhà Chu.
Từ đây chiến tranh triền miên thôn tính lẩn nhau xảy ra lần lần khắp phương
Bắc, dân phương Bắc chạy loạn chạy giặc di cư qua Bắc Văn Lang càng về sau càng
lúc càng nhiều, dẫn đến mối họa mất Bắc Văn Lang, biến Bắc Văn Lang thành Trung
Nguyên, sau nầy trở thành Trung Quốc.
Bắc Văn Lang chính là
Trung Nguyên, Trung Quốc, vì thế Việt Nam, và Trung Nguyên, Trung Quốc, là một
dải đất liền, trở thành hai nước láng giềng, cùng một điều kiện địa lý. Cho nên
người Việt Nam Văn Lang, và người Hoa Trung Quốc Bắc Văn Lang, đã có quan hệ
lịch sử rất lâu đời, từ thời đại Kinh Dương Vương, chuyển sang thời đại Hùng
Vương, Bắc Văn Lang trở thành Trung Nguyên rồi chuyển sang Trung Quốc, đều nằm
trong chủng tộc lớn Bách Việt, nói chung nước Văn Lang có Bách Việt. Vì thế ở
Trung Nguyên Trung Quốc, vào thời đại Hùng Vương đã đánh dấu đặc tên nhiều con
sông, như sông Dương, nói về thời đại Kinh Dương Vương, sông Âu, sông Lạc, Âu
Cơ, Lạc Long Quân, nói về thời đại Hùng Vương. Nước Văn Lang chia ra làm ba
miền, Nam Văn Lang, chính là nước Việt Nam ngày nay, Trung Văn Lang, Bắc
Văn Lang, chính là Trung Nguyên, Trung Quốc hiện nay, hầu hết miền Giang Nam Lãnh
Nam Trung Quốc, từ sông Dương Tử Trường Giang trở vào, vì thế người Việt và
người Trung Hoa không những cùng một điều kiện về địa lý, mà còn về chủng tộc
họ tộc cũng rất giống nhau, trên một nguyên lý cơ bản là cùng chung Bách Việt
Văn Lang có niên đại lịch sử hơn 10 nghìn năm, từ thời Kinh Dương Vương, phát
nguồn từ thời đại Viêm Đế Thần Nông.
Văn Lang khó
nuốt biết dường bao
Quân Gióng vùng
lên quét sạch nào
Tham tàn bạo ác
quân ăn cướp
Thây phơi chật
đất thảm biết bao.
Giặc Hồ giặc Hung
Nô, giặc Ân, vô cùng tàn bạo, phần lớn Tướng Lĩnh của quân giặc, phần nhiều là
yêu tinh quỉ dữ đầu thai, nhất là họ hàng của Hồ tinh, họ hàng của Mộc
tinh, họ hàng của Ngư tinh, đã bị quân Âu Việt, Lạc Việt, theo Quốc Tổ Vua Hùng
mở mang bờ cõi vào đất Lãnh Nam, con cái, cháu chắt, chút chút, họ hàng Hồ
tinh, Ngư tinh, Mộc tinh, đông vô số lên đến hơn mười mấy vạn, đã bị quân Âu
Việt, Lạc Việt quét sạch, hồn chúng đầu thai về phương Bắc, có cơ hội là chúng
đánh chiếm Văn Lang, tàn sát dân Văn Lang, chúng bắt đàn bà con gái, hảm hiếp
hoang dâm vô độ, chúng ăn thịt cả trẻ con, uống máu những chàng trai trẻ, chúng
bắt dân trồng cây ngược cây chết thì chúng giết, chúng bắt đàn ông con trai làm
đủ mọi chuyện nô lệ, nhịn đói nhịn khác, chúng đánh đập hành hạ sống
không được, chết cũng không xong, những tội ác của giặc Ân phải nói là khủng
khiếp, không có loại tội ác nào mà chúng không làm.
Chúng bắt dân
cắm trồng cây ngược
Cây chết thời,
chúng lột lấy da
Nấu dầu, đâm,
chém, chẳng tha
Chúng chà chúng
đạp tan thây nát nhừ
Chúng hảm hiếp
đàn bà con gái
Chơi đủ trò đến
chết chẳng tha
Trái ý thời
chúng lột da
Quăng cho rắn
nuốt rắn xơi kinh hồn
Ôi lũ giặc bạo
tàn khác máu
Hành hạ dân đủ
thứ dã man
Gieo bao tan
tóc đau thương
Cơ Trời chuyển
hóa Thánh Vương ra đời
Long Vương
Thánh Chúa xuống trần
Đoàn quân Thánh
Gióng diệt loài xâm lăng
Binh Trời trở
lại cõi trên
Văn Lang nhớ
mãi công ơn binh Trời.
Đây nói về đoàn quân
Thánh Gióng sau khi quét sách ngoại xâm, phi ngược hướng về hướng Nam rồi lần
lần biến đi đâu mất. Nói về Gióng sau khi đánh tan quân Hồ, quân Ân, quân Hung
Nô, Gióng phi ngựa về hướng Nam ngựa đi nhanh như cơn bão vượt qua núi, bay qua
sông, Gióng không về thăm Mẹ, phi ngựa thẳng đến bồ đề, dừng ngựa lại uống nước
bên bờ sông Hồng,dấu chân ngựa Gióng lại in khắp nơi, Gióng vượt qua sông Hồng,
đến thẳng làng Xác Cáo bên bờ Hồ Tây. Gióng chỉ xuống Hồ Xác Cáo nói, hỡi các
loài Hồ tinh, các ngươi tuy bỏ xác nơi đây, nhưng linh hồn các ngươi đã đầu
thai phương Bắc, kết cấu với vô số linh hồn Ngư tinh, Mộc tinh, cùng vô số các
loài Yêu tinh khác nữa, khắp địa cầu, các ngươi đã làm hại dân tộc Văn Lang
không biết bao lần. Nếu biết khôn hồn thời lo tu tâm dưỡng tánh hướng thiện,
thời mong được có ngày về Trời, không nên xâm lược làm hại đất nước Văn Lang
nữa. Bằng không Thiên Ấn - Thiên Bút, ra đời tiêu diệt linh hồn của các ngươi,
thần thức anh linh các ngươi sẽ biến mất, các ngươi sẽ không còn có cơ hội để
được làm người, cũng không còn có cơ hội để làm loài cầm thú nữa, nói xong
Gióng giở cơm nấm ra ăn nghỉ chân một chút rồi phi ngựa về Sóc Sơn, bỏ lại một
đoạn roi sắt thép ở đây, ngựa Gióng phi đến đâu thời thành ao thành vũng
đến đó, đến chân Sóc Sơn, Gióng ghìm cương ngựa lại, ngựa Gióng hí lên vang
động đất trời, dẩm chân lia lịa đi tới đi lui xoay tròn bốn phía, trở thành
những ao vũng dày chi chít. Gióng nhìn nhìn non xanh nước biếc lần cuối rồi phi
ngựa thẳng lên đỉnh núi cao. Khi ấy có một người dân ở làng Mõ đang cày ruộng
gần núi Sóc Sơn, thấy Gióng dừng ngựa trước khi phi ngựa lên núi, người dân làm
ruộng ấy định chạy tới lạy Gióng, nhưng ngựa Gióng đã phóng vút lên núi,
người làm ruộng chỉ biết đứng nhìn, trên đỉnh núi mây mù che phủ. Người làm
ruộng còn đang phân vân, thời một người cao lớn hiện ra trước mặt mách bảo, ta
là Thần Núi Sóc Sơn, anh cứ trèo lên đỉnh núi, Thánh Gióng đã về Trời, áo giáp
ngựa, giáp người ở dưới gốc cây Trầm Hương to lớn, còn mão thời treo lên nhánh
Trầm Hương, hãy lấy gỗ Hương kia mà tạc tượng Thánh Gióng. Vu Điền người tạc
tượng Gióng, cũng được thờ ngôi phụ bên cạnh Thánh Gióng, trong đền thờ Sóc
Sơn.
HỒI
KẾT
PHONG
QUAN TIẾN CHỨC
Đông đã qua rồi
xuân lại đến
Phụng về múa
hát, Hạt chơi mây
Thôn quê thành
thị, qua thời khốn
Thái bình đầm
ấm, cánh cò bay
Độc lập Âu ca
niềm hạnh phúc
Non xanh nước
biếc sắc hương đầy
Kiếp vận xoay
vần cơ tạo hóa
Hết suy tới
thịnh vốn xưa nay.
Hùng Huy Vương lâm
triều, bá Quan văn võ vào chầu đủ mặt, ai nấy nét mặt đầy hân hoan rạng rỡ.
Quan Lạc Hầu Thượng Thư tâu rằng: Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ, Đoàn quân Thánh
Gióng sau khi đánh tan quân giặc, thời không trở về làng nữa mà tất cả
lần lượt biến mất bay về Trời, cả Triều Đình nghe Quan Lạc Hầu Thượng Thư tâu
như thế ai nấy cũng đều sững sốt, có chuyện như thế sao. Quan Lạc Hầu Thượng
Thư, cũng đang trải qua cơn xúc động ngừng giây lác rồi đọc tiếp. Muôn tâu Quốc
Vương Bệ Hạ:
- Như ba anh em
nhà Ba Chạ, ở Làng Môi, Làng Mòi.
- Đàn trẻ chăn trâu ở
Hội Xá.
- Hai người câu cá trên
Sông Hồng.
- Những người thợ săn.
- Anh em sinh đôi làm
ruộng.
- Những người trồng
tre.
Phi theo Gióng rồi lần
lượt biến mất, nhiều người trông thấy đàn trẻ chăn trâu ở Hội Xá, cũng như các
vùng lân cận ở Hội Xá sau khi đánh tan giặc Ân phi ngựa về núi Trâu rồi tất cả
đều biến đi đâu mất. Năm anh em cùng sanh ra trong một bọc. Ngũ Tài Kim -
Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ, phi ngựa về núi ngũ hành biến mất, 35 người trai tráng
khỏe mạnh Làng Y Na không theo năm anh em Ngũ Hành hiện đang thống lãnh quân
binh trấn giữ biên giới Bắc Văn Lang.
- Ông Trấn, Ông Trâu,
Ông Bạch Sam, phi ngựa lên núi Tiên Du biến mất.
- Đàn Hổ, đàn Voi, đàn
Sư Tử, đàn Chim Ưng, cũng biến mất theo.
- Hai anh em Chủ Soái,
Nguyên Dực Nguyên Minh sau khi đánh tan quân giặc ngoại xâm phi ngựa theo Gióng
đến Ngô Hạ, núi Độc biến mất.
- Còn Gióng phi ngựa
lên núi Sóc Sơn về trời.
Cả Triều Đình nghe Quan
Lạc Hầu Thượng Thư tấu trình những kỳ tích đánh tan giặc Ân, giặc Hồ, giặc Hung
Nô, chỉ trong vòng có ba ngày tiêu diệt hơn 90 vạn quân đã là kinh hồn bạc vía,
lại nghe đoàn quân của Gióng lần lượt biến mất bay về Trời, chuyện lạ đời từ trước
đến nay chưa từng có. Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ: Mẹ Gióng quê ở Làng Phù, tên
là Thị, tên thường gọi là bà Phù Thị.
- Phù Thị mang thai
Gióng ở Làng Đổng, khi bà Phù Thị sanh ra Gióng, bà đặc tên cho Gióng là Phù
Đổng, có nghĩa là liên kết hai làng, Làng Phù và Làng Đổng, những gì liên quan
về Gióng Thần cùng các Quan cọng sự làm việc cật lực thu thập thông tin Thần đã
báo cáo lên Bệ Hạ, xin Bệ Hạ phán xét phong Quan tiến Chức cho những người có
công đối với non sông Tổ Quốc.
Hùng Huy Vương nói, quân
Gióng là quân nhà Trời đầu thai mượn xác trần, cứu non sông Tổ Quốc Văn
Lang, xong nhiệm vụ tất cả đều đồng loạt về Trời, bỏ lại xác trần một cách bí
mật, không ai có thể biết được. Đến lúc bấy giờ Hùng Lang Công ở Kinh Đô hợp
phố Giao Chỉ Bắc Văn Lang từ chỗ ngồi đứng dậy, bước ra dâng tấu sớ những người
có công đánh đuổi ngoại xâm vì nước vì dân lên Hùng Huy Vương, xin lãnh ý chỉ
Quốc Vương phong Quan tiến Chức, cho những người còn sống cũng như những người
đã chết, cũng như ổn định lại Bắc Văn Lang trải qua một thời gian dài bất ổn.
Hùng Huy Vương nhận tất cả tấu sớ rồi bãi Triều, rạng ngày hôm sau Hùng Huy
Vương lâm Triều. Bá Quan Văn Võ đủ mặt tung hô vạn tuế.
Hùng Huy Vương truyền chỉ:
Quan Lạc Hầu Thượng Thư đọc chiếu
chỉ phong ấn sắc lần lượt như sau:
- Trước truy phong Gióng, với
công lao to lớn đánh tan quân giặc ngoại xâm, cứu dân cứu nước. Sắc phong Thánh
Gióng, Phù Đổng Thiên Vương, và cho lập đền thờ ở quê nhà hai làng, làng Phù và
làng Đổng cúng tế hàng năm.
- Sắc phong Phù Thị mẹ của Gióng,
Thánh Mẫu, được phụng dưỡng ngang hàng với bậc Quốc Mẫu Nương Nương, khi qua
đời được lập đền thờ ở cạnh đền thờ của Gióng.
- Truy phong năm anh em ngũ
tài, có công đánh tan quân xâm lược cứu dân cứu nước. Sắc phong ngũ Thánh, Kim
Thánh, Mộc Thánh, Thủy Thánh, Hỏa Thánh, Thổ Thánh, lập đền thờ nơi làng Y Na,
hàng năm cúng tế.
- Truy phong đàn trẻ chăn
trâu, ở Hội Xá, cũng như đàn trẻ chăn trâu các vùng lân cận Hội Xá, có công cứu
dân cứu nước đánh tan quân xâm lượt rồi phi về núi Trâu biến mất, sắc
phong Thiên Binh quân Trời, lập dinh thờ khắp nơi cúng Tế hàng năm.
- Truy phong ba anh em nhà Ba
Chạ, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược cứu dân cứu nước. Sắc phong Tam
Quan Trung Thần, được lập đình miếu cúng tế hàng năm.
- Truy phong hai người
câu cá trên sông Hồng, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu dân cứu
nước. Sắc phong Nhị Ngư Trung Thần, được xây đình miếu trên sông tế lễ hàng
năm.
- Truy phong những người thợ
săn, có công theo Gióng đánh ta quân xâm lược. Sắc phong Sơn Linh Trung Thần,
được xây đình, miếu, cúng tế hàng năm.
- Truy phong những người làm
ruộng, những người trồng tre, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu
dân cứu nước. Sắc phong Nông Linh Trung Thần, lập đình, miếu, thờ phụng khắp
nơi, cúng tế hàng năm.
- Truy phong đàn hổ, đàn voi,
đàn sư tử, đàn chim ưng, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu dân cứu
nước. Sắc phong, Hổ Thần, Voi Thần, Sư Tử Thần, Chim Ưng Thần, được lập miếu
thờ khắp nơi cúng tế hàng năm.
- Truy phong hai anh em chủ
soái Nguyên Dực, Nguyên Minh, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu
dân cứu nước. Sắc phong Nhị Linh Trung Thánh, được lập đền thờ tại Ngô Hạ núi
Độc, thờ cúng hàng năm.
Đọc xong chiếu chỉ sắc phong những
người theo Gióng về Trời xong, trở về chỗ ngồi, thời kế tiếp Hùng Lang Công đọc
chiếu chỉ phong ấn sắc thứ hai. Hùng Lang Công đọc chỉ ấn sắc rằng, những người
có công đánh tan quân xâm lược, cũng như có công chống trả lại quân thù, cứu
dân cứu nước, người sống cũng như người chết, được tăng phẩm vị lên ba cấp,
phong cho đất đai trăm mẫu, hưởng bổng lộc theo luật định của Triều Đình, những
Châu Phủ, Quận Huyện, chưa có người bổ nhiệm chủ quản, theo chiếu chỉ
phong chức sắc bổ nhiệm về nơi đó mà nhận chức, Quan Phủ, nhận chức Bố Chính.
- Truy phong Cao Hải, có công
theo Gióng đánh tan quân thù cứu dân cứu nước, phong lên hàng Vương, Cao Đại
Vương. Sắc phong chủ quản Bộ Châu Diên, bảy Châu. bảy mươi Quận Huyện.
- Truy phong các Tướng Lĩnh,
cố thủ cung thành, cũng như các Tướng Lĩnh theo Gióng đánh tan quân xâm lược,
được phong lên ba cấp. Sắc phong: hàng Tướng bổ nhiệm về các Châu, Tử Dương
Châu, Bắc Giang Châu, Lạc Giang Châu, Dương Giao Châu, Kinh Giao Châu, Tây
Giang Châu, Tây Tây Châu, Hạ Tây Châu, Giao Giao Châu, Quý Linh Giao Châu, Thất
Khê Châu, Đình Hải Châu, Cái Hải Châu, Phúc Hải Châu, Đông Giao Châu, Hạ Hải
Châu, Liểu Giao Châu, Lạc Trung Châu, Hạt Linh Châu, Quế Điền Châu, Hợp Linh
Châu. vân vân . . . còn nhiều các Châu khác nữa có hơn 30 Châu 200 mấy chục
Quận Huyện. Hàng phó Tướng bổ nhiệm về các Quận Huyện, hàng trưởng đội, phó đội
bổ nhiệm về các làng Xã.
Hai tháng sau Cao Hải
thành hôn với Lạc Kim Tiên, hôn lễ vô cùng long trọng, sanh con đẻ cái đầy đàn.
Nước Văn Lang thái bình độc lập, hưng thịnh hơn 300 năm thời có biến loạn trở
lại, muốn biết sự biến loạn đó ra làm sao, nước Văn Lang sẽ như thế nào mời các
bạn xem tiếp Văn Lang chiến sự ở các giai đoạn khác, ở vào giai đoạn cuối thời
các Vua Hùng thời sẽ
rõ.
Trang
Sử
Văn Lang chiến
sự khép lại kết thúc
Xốm dừa nhìn
bãi dâu xanh
Gió thu ru nhẹ
lá cành làng quê
Cánh cò bay lã
bay la
Bay qua xốm
nước bờ tre ruộng đồng
Trâu nhìn đò
chạy trên sông
Mục đồng chăm
chú nhìn trông cánh dều
Khói lam tìm
ánh nắng chiều
Đàn chim nhẹ
cánh tìm về núi non
Bao la trời nhớ
đất thương
Non xanh nước
biết vấn vương đất trời
Ánh trăng vằng
vặc đêm về
À ơi tiếng hát
ngọt lành mẹ ru
Ánh đèn soi
dáng người thân
Sạm đen vì bởi
gió sương tháng ngày
Đêm về nhớ ánh
trăng đầy
Nhớ hừng đông
dậy nhớ gà báo tin
Gâu gâu chó hỏi
người đi
Vườn cà làng
Đổng có ai giữ gìn
Người rằng ! Có
một người hiền
Tên là Phù Thị
một mình không con
Lâu rồi ở với
Đức ông
Vườn cà chăm
sóc sớm hôm kể gì
Nết na tứ Đức
ai bì
Người tuy xấu
xí lòng đầy ngọc châu
Lòng vàng cứ
mãi bay xa
Đến tai Thượng
Đế Trời Cha Chúa Trời
Huyền cơ chuyển
biến đến người
Long Vương Sùng
Lãm xuống trần đầu thai
Vườn cà để lại
dấu chân
Phù Thị dẩm
phải tượng lần bào thai
Huyền cơ chuyển
vận éo le
Phúc họa, họa
phúc có ai nghĩ lường
Sau đây là
chuyện của người
Sử Kinh để lại
cho người xem coi
Sử Kinh là tấm
gương soi
Cho bao thế hệ
đời sau răng mình.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét