HUYỀN CƠ SẤM GIẢI
NHỊ THẾ PHÂN TRANH
PHẦN 1
Nào ai có muốn cảnh nầy
Chu kỳ mạc kiếp phải đành họa chung
Muốn yên mà chẳng đặng yên
Huyền cơ đã định cản ngăn được nào.
Giai đoạn thế kỉ 20 cũng là gia đoạn cuối của kỉ nguyên 2000
năm. Giai đoạn Mạc Pháp. Ở vào giai đoạn nầy nhân loại thế giới nói chung, dân
tộc Việt Nam nói riêng không sao tránh khỏi chiến tranh. Nhất là chiến tranh nồi
da nấu thịt, gây ra bao thảm cảnh tương tàn đau đớn làm sao. Gần Giữa thế kỉ 20
thời mạc vận mạc pháp, mạc kiếp. Hung khí Âm U càng hưng thịnh làm cho đất nước
Việt Nam chia bè rẽ phái sâu đậm, chí hướng khác nhau đoàn kết không còn, dẫn đến
chia cắt Bắc - Nam, vào ngày 20 - 07 - 1954. Đàng ngoài Hồ. Đang trong Ngô, lưỡng
Hổ phân tranh nồi da nấu thịt, chiến tranh Nam Bắc đồ thán tương tàn đau
thương. Kể sao cho hết nói sao cho cùng. Đã đi vào lưỡng Hổ phân tranh, thời nhất
định có kẻ thắng người thua. Và đúng như vậy vào ngày 30 - 4 - 1975. Nhà Hồ nuốt
trọn miền Nam thống nhất đất nước. Rồi thời gian cứ đi qua năm nầy đến năm khác
nó bỏ lại sau lưng những đau thương tương tàn. Anh Em, Dòng Họ, Cha Con, hai bờ
chuyến tuyến không kể gì nhau. Nói cho cùng cũng chỉ là nạn nhân của hai Chế Độ.
Đã nẩy sanh ra theo Cơ mạc kiếp mạc pháp, đưa nhân loại đến con đường cơ cực lầm
thang. Thời gian là liều thuốc chữa lành vết đau, và cũng trôi nhanh qua giai
đoạn mạc vận mạc kiếp khốn khổ tan thương nầy. Ai ai cũng trông chờ giai đoạn mới
tốt hơn xuất hiện. Ví như hết mưa trời lại nắng, hết tối trời lại sáng. Kiếp khổ
đã qua thời kiếp vui kiếp hạnh phúc lại đến. Trần gian là thế không ai có thể
làm khác đi được. Trời nắng thời nhân loại con người sống theo nắng. Trời mưa
thời con người sống theo mưa. Bình minh xuất hiện nhân loại con người lại đi
vào ngày mới. Đêm đã về thời thế giới Ma, Quỉ, sẽ hiện ra. Không ai sống ra
ngoài quyền Tạo Hóa được. Nhân Tài Đất Việt thời nào cũng có. Cơ trời đã chuyển
hóa sanh ra một người kỳ tài họ nguyễn thế kỷ 16 tiên tri dự báo cho tương lai
Việt Nam qua các thời kỳ, cũng như cuộc diện thế giới trải qua hàng nghìn năm.
Nhưng chủ yếu tiên tri ở vào giai đoạn cuối thế kỉ 20, đầu thế kỉ 21 cũng tức
là đầu kỉ nguyên 3000 năm.
Ở vào giai đoạn đi lần về cuối thế kỉ 20 là giai đoạn đi lần
đến kết thúc, giai đoạn mạc vận, mạc pháp, mạc kiếp vào năm 2000 chuyển sang thế
21 đi vào kỉ nguyên 3000 năm.
Theo chu kỳ vận hóa vũ trụ, thời mạc vận, mạc kiếp kết thúc
vào năm 2000. và kéo dài thêm 20 năm mới hết Cơ vận mạc kiếp mạc pháp. Sao lại
có chuyện kỳ lạ như vậy ?
Để giải đáp sự kì lạ nầy, có thể đưa ra thí dụ như sau:
Hãy nhìn chiếc xe đang chạy với vận tốc cao. Cho dù máy đã hết
nổ. Nhưng xe vẩn chạy thêm một đoạn đường nữa mới dừng. Đó là chạy với cái trớn
của nó mà thôi.
Thời mạc vận mạc pháp, mạc kiếp. Kết thúc vào năm 2000 chỉ
còn Cơ trớn kéo dài thêm 20 năm nữa thời kết thúc không còn. Sự kết thúc Cơ mạc
vận mạc pháp mạc kiếp vào năm 2000. Thời cũng từ đây xất hiện một Cơ mới sanh
ra lớn dần đi vào thời đại mới đến 2016 thời tỏa sáng. 2017 chính thức đi vào
Thời đại Thánh Đức thượng ngơn. 2018, 2019, Quốc Đạo Thánh Đức phục sinh, từ
đây non nước thái bình âu ca. Để cho dễ hiểu sự sanh và sự diệt, cái nầy diệt
đi thời cái khác sanh ra. Ví Dụ như Bóng Đêm mờ nhạc lần đồng với nghĩa là Ánh
Sáng cũng từ từ xuất hiện. Bóng Đêm mất hẳng thời Ánh Sáng cũng đi vào chói
chang. Muôn sanh linh cùng vạn vật đi vào cuộc sống mới. thế giới ra sao? cuộc
diện Việt Nam sẽ đi về đâu, để cho con cháu Tiên Rồng Việt Nam biết trước với
những câu sấm chính xác đến bất ngờ.
Người đó là ai ? Ứng theo mệnh trời giao phó như vậy.
* * *
Hết phần 1 mời các bạn xem tiếp phần 2 ứng theo mệnh trời
giao phó tiên tri biết trước vận mệnh Việt Nam. người ấy ra đời cách đây 500
năm ở vào thế kỉ 16 là ai?
--------------------------------
HUYỀN CƠ SẤM GIẢI
SỰ RA ĐỜI THẾ LỰC LƯU VONG
PHẦN 2
Tiểu sử nhà tiên tri đại tài là ai ? người ấy không ai khác
hơn là Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm tên trong khai sinh là Nguyễn Văn Đạt,
sanh năm tân hợi. Niên hiệu Hồng Đức năm thứ 22, dưới triều Lê Thánh Tôn (
1491) ở thời kỳ được coi như là thịnh nhất của nhà Lê Sơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm
sinh tại làng Trung Am, Huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Nay thuộc
xã Lý Học, Huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.
Thân phụ của Ông là giám sinh Nguyễn Văn Định. Đạo hiệu là
Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử.
Mẹ của Ông là Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến Sĩ
Thượng Thư. Bộ hộ Nhữ Văn Lan. Triều Lê Thánh Tông. Bà là
người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều, nhất là rất giỏi về
tướng số. Thuở nhỏ Ông gặp được thầy đức cao Ngộ Đạo truyền cho Ông Dịch Học,
Chu Dịch, Thái Ất Thần Kinh Ông học đâu nhớ đó thông suốt. Cọng với học hết cái
tài tinh thông Lý Học, cũng như Tướng Số của Mẹ. Ông trở thành một bậc kỳ tài
không ai sánh kịp. Ông sanh ra là để phò Vua Chiếu. Chính là Đinh Tiên Hoàng đầu
thai tái sanh. Nhưng Vua Chiếu đã bị người Tàu yểm hại chết khi còn trẻ tướng
lĩnh trong quân binh trấn giử biên cương thời Lê Sơ. Một hôm Ông nhìn lên trời
thấy sao Ngưu Tinh đang tỏa sáng bổng mờ dần và biến mất. Ông cảm thấy hụt hẩn
cuộc đời nơi trần thế. Ông không có nhân duyên với triều Lê Sơ cũng như nhà Mạc.
Tuy học cao hiểu rộng nhưng đi thi thường hay bị trượt, nhưng cuối cùng Ông
cũng đổ Trạng ra làm quan ở thời Nhà Mạc. Nhưng vì không có duyên với thời Nhà
Mạc. Nhất là đám quan lại triều đình Nhà Mạc. Luôn đố kỵ và tìm cách mưu hại
Ông. Quá thấu hiểu thói đời xu nịnh bầy tôi nhà Mạc. Ông không muốn chung vua
cùng họ. Liền từ chức cáo quan, về quê lập Am Bạch Vân tu luyện Ngộ Đạo trở
thành nhà Tiên Tri bậc nhất thời bấy giờ. Ông ra hàng loạt câu sấm làm kim chỉ
nam cho hậu thế mai sau. Nhất là cuối kỷ nguyên 2000 năm thế kỉ 20. và đầu kỷ
nguyên 3000 năm thế kỉ 21. Từ đó Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng vô cùng tiên tri
đâu trúng đó. Môn sinh theo học cũng đông. Ông trở thành Bạch Vân Cư Sĩ. Nhà
tiên tri nổi tiếng luôn chấn động thời cuộc đến nay đã 500 năm.
Ở vào thời kỳ giai đoạn 2/3 thế kỉ 20 đi lần về cuối thế kỉ
20 giai đoạn gần hết kỷ nguyên 2000 năm tình hình đại Việt càng thêm bất ổn,
Nhà Hồ nuốt luôn Miền Nam.
Ngày 30 tháng 4 : 1975 Nhà Hồ chiếm lấy miền Nam. Làm cho những
người theo chế độ miền Nam không còn đất sống. Những người chết, cũng những người
bị bắt đi cải tạo không nói. Còn vô số cả hàng triệu triệu người phải bỏ lại
sau lưng quê cha đất tổ vượt biên giới. Vượt biển bất kể sống chết lánh nạn khắp
cùng thế giới. Dần dần hình thành lên thế lực Lưu Vong Hải Ngoại. Thế lực mang
trong lòng nỗi huyết hận thâm thù. Mong có ngày trở về trả hận.
Đúng là oan oan tương báo, hết đời Ông đến đời Cha đến đời
con, đời Cháu không biết bao giờ Hận Thù chấm dứt.
Với sự ra đời bộ máy lãnh đạo Hải Ngoại điều khiển chỉ huy
phá ngầm thế lực Tam Vô Cọng Sản Nhà Hồ trong nước. Chờ ngày trở lại phục thù.
Mối hiểm họa này càng ngày càng lớn chờ ngày bùng nổ lật đổ chiến tranh xảy ra.
Dân tộc Việt Nam lại đi vào cảnh chiến tranh nồi da nấu thịt, gây ra cảnh đau
thương tàn sát lẫn nhau. Nếu không có Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang cũng như Hồn
Thiên sông núi can thiệp theo lệnh Quốc Tổ chuyển xây theo một thế tình khác. Từ
hiểm họa chuyển sang bình an. Thời thảm họa không biết đâu mà lường.
Lưỡng Hổ đi vào phân tranh dẫn đến thảm họa diệt chủng tiêu
diệt lẫn nhau. Nghĩ cho cùng không bên nào được lợi cả. Mà được lợi chính là thợ
săn Trung Trọng. Cái lợi không cần giao chiến mà cũng viên thành. Đến khi thế lực
Thợ Săn thấy hai Hổ tranh tranh nhau chém giết tơi tả, hai Hổ đã yếu sức thoi
thóp. Thời biết thời cơ đã đến liền ra tay tốm gọn cả hai. Triển khai đưa quân ồ
ạc xâm chiếm Việt Nam với cái cớ nói rằng trợ giúp cho một bên. Nhưng thật ra
chúng nốt trọn đất nước Việt Nam xóa sổ đất nước Việt Nam không còn nữa.
Quốc Tổ quá hiểu rõ thâm ý của quân xâm lược. Cũng như mối
hiểm họa đi vào mất nước Việt Nam. Với sự toan tính Nhà Hồ suy vong vào năm
2011 và chúng lôi kéo tạo tình thế ngã hẳng về Phương Bắc. Đây là cơ hội nuốt
luôn đất nước Việt Nam. Thời Cơ đã đến gần Trong khi thế kỉ 20 đi lần đến chấm
dứt, kỷ nguyên 2000 cũng đi qua. Thời mạc vận mạc pháp không còn. Cơ hội đã tới.
Quả là người tính không bằng Trời tính. Huyền cơ Thánh Đức
xuất hiện. Đầu thế kỉ 21 cũng là đầu kỷ nguyên 3000 năm. Ở vào giai đoạn nầy Phật,
Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Cũng như Vương Quan qua nhiều triều đại Hùng Vương.
Cũng như thời đại con cháu Từ thời Nhà Đinh trở xuống tái kiếp đầu thai trở lại
trần gian vô số vô biên từ lâu. Và cũng từ từ xuất hiện theo huyền cơ cứu vãn
tình thế. Chuyển lần tình thế đi vào Cơ Thánh Đức. Như Ý Trời đã định. Quốc Tổ
trở về trần gian mượn xác phàm chuyển xây vận mệnh non sông tránh khỏi họa diệt
vong theo mưu đồ Trung Quốc, lập lên con cờ thôn tính đất nước Việt Nam.
Cụ Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm Bạch Vân Cư Sĩ gieo quẻ bấm độn
liền thấy rõ Cơ Trời Huyền Cơ lập đời Thánh Đức sau 500 ở vào giai đoạn cuối thời
mạc vận, mạc pháp, mạc kiếp. Cụ Trạng liền nguyện rằng con sẽ đầu thai trở Phò
Quốc Bảo Thiên Ý Cha Trời lập công với Tạo Hóa. Trạng để lại sự tái sanh của
Ngài . Với câu Sấm. Chừng nào Tiên Lãng Xẻ Dôi. Sông Hàn Nối Lại Thời Tôi Lại Về.
Vì thế Cụ Ngài đã tái sanh xuống trần lâu rồi. Hiện đang lưu vong ở nước ngoài.
* * *
Hết phần 2 mời các Bạn xem tiếp phần 3 với tài năng tiên tri
có một không hai trên đời Cụ Ngài Nguyễn Bỉnh Khiêm
----------------------------------------
HUYỀN CƠ SẤM GIẢI
SỰ HUYỀN DIỆU CỦA CƠ SẤM
PHẦN 3
Sấm Trạng tiên đón rất nhiều, nhưng ở đây chỉ giải mã những
giai đoạn cần thiết giai đoạn cuối thời mạc vận mạc pháp mạc kiếp. Chuyển sang
giai đoạn hình thành Cơ Thánh Đức mà thôi. Cụ Trạng Bạch Vân Cư Sĩ tu hành đã đến
cảnh giới Ngộ Đạo. Nên tài tiên tri phải nói là xuất chúng ra nhiều câu sấm bí
hiểm khó, người thường khó mà giải mã nổi. Vì giải Mã sấm cơ không nổi nên rất
nhiều người đến nhờ Cụ Trạng giải mã những câu sấm do người nói ra. Nhưng Cụ Trạng
nghiêm cấm lưu chép lại vì sợ lậu thiên cơ, khi cơ trời chưa cho phép. Hơn nữa
Việt Nam đến đời Thánh Đức còn quá xa 500 nữa mới tới. Sự giải mã ghi chép cũng
chẳng đem lại lợi ích gì. Cụ Trạng nói muốn giải rõ nhưng câu sấm, nhất là những
câu sấm khó liên quan đến vận mệnh đất nước. Thời người đó phải là một Quốc Sư.
Vì Quốc Sư mới hiểu được những biến động của đất nước. Còn người thường hay bậc
chân tu cũng không thể nào giải mã nổi, Chỉ trừ người đã có huệ nhãn. Sấm cơ
luôn liên quan đến Cơ vận Quốc Gia nhất là một quốc gia đang biến động chính trị.
Nhưng với lòng mến mộ vượt đường xa tìm đến Cụ. Không lẽ không lộ chút thiên cơ
với tấm lòng thành kính của họ. Nên Cụ Trạng giải rõ những câu sấm ngài viết để
lại cho đời sau. Có người hỏi câu sấm 389 ý câu nầy thế nào?
Câu sấm: 389
Nhà Cha Đóng Cửa Then Cài;
Cụ Trạng giải thích rằng;
Nhà: Có nghĩa là Nhà nước;
Cha: Có nghĩa vị Cha Già Cáo Vương hơn bốn trăm năm nữa mới
xuất hiện lập lên Nhà Hồ. Người là thành viên Cọng Sản Đông Dương, khai sinh ra
Đảng Cọng Sản Việt Nam. Khi vị Cha Già qua đời Đảng Cọng Sản Thế Lực Tam Vô.
Đóng Cửa: Có Nghĩa là Bảo Thủ không chịu đổi mới. Then Cài: Có nghĩa là Phong
Kín không quan hệ với thế giới Văn Minh tiến bộ nhân loại. Chủ trương chính
sách, nhất quáng một đường lối trước sau như một. Với thể chế Độc Tài, Bảo Thủ
Phong Kín. Không tiến hóa thay đổi gì cả. Làm cho đất nước cứ mãi trì trệ lạc hậu
dẫn đến đói nghèo khốn khổ. Ngoại xâm cỡi đầu cỡi cổ không ngóc đầu dậy nổi.
Như vậy câu:
Nhà Cha, Đóng Cửa, Then Cài đã được giải rõ
Có người lại hỏi. Một thể chế bảo thủ tai hại như thế, không
có người phá đi rào cản ấy. Để cho đất nước đi lên hay sao ?
Cụ Trạng nói, theo hào quẻ Thái Ất Chu Địch cũng như Lý Số
linh ứng chó thấy đảng Cọng Sản Tam Vô vì quá cao ngạo lại thêm bảo thủ làm cho
đất nước Việt Nam chậm phát triển để cho đàn em Lào, Camphuchia lân cận lần lần
qua mặt, đây là một sự nhục nhã lớn con cháu Tiên Rồng Việt Nam. Gây ra bao cảnh
bất bình bức xúc cho các thành phần trí thức tiến bộ. Cũng như một số thành phần
trong bộ chính trị. Với tình thế bức xúc trong tần lớp trí thức xã hội cũng như
nội bộ Cọng Sản tự chuyển hóa cơ biến như thế. Thời làm sao tránh khỏi sự đòi hỏi
chính đáng của đại đa số trí thức cũng như sự đói nhèo lạc hậu của người dân.
Không phải thế lực Tam Vô người nào cũng bảo thủ cả nhất là
những người có trách nhiệm đối với Nước với Dân sẳn sàng đột phá có giải pháp Mở
Cửa vứt Then đi vào cơ chế mới. Vì có sự đột phá như thế làm chấn động thể chế
Tam Vô Bảo Thủ đã kéo dài trải qua suốt bảy, tám mươi năm.
Có người lại hỏi : Thưa Thầy;
Người đó là ai mà can đảm tốt bụng như vậy ? Cụ Trạng cho biết
qua lời sấm như sau
Câu 390 ;
Bây Giờ Sấm Động, Hỏi Người Đông Lân
Bây Giờ Sấm Động: Có nghĩa là khởi mầm Sấm Động. Làm cho Thế
Lực Tam Vô Bảo Thủ Cọng Sản đang co mình nằm yên nổi lên Sấm Động. Sự Sấm Động ấy
là do nhiều người làm đương nhiên có người chủ chốt. Có người hỏi người chủ chốt
ấy là ai ? Cụ Trạng cho biết, muốn biết người ấy thời hỏi người Đông, Lân thời
rõ. Nhưng 500 nữa mới biết được người nầy.
Có người lại hỏi, hỏi người Đông, Lân, là hỏi ai? Cụ Trạng
trả lời theo Lý Số cho biết:
Hỏi Người Đông Lân: Có nghĩa là hỏi người Đông Hội. hỏi người
Huyện Đông Anh. Nổi tiếng hội tụ kỳ Lân thời rõ được người tốt bụng nầy.
Cũng từ dây trong thế lực Tam Vô, dần dần xuất hiện ra một
thế lực mới, đó là thế lực Kỳ Lân Chu Du. Thế lực chuyên tìm tòi học hỏi những
cơ bản chuyển đổi đất nước. Lèo lái con thuyền đưa non sông Tổ Quốc đến giai đoạn
mới. Giai đoạn sanh ra nhiều đạo luật quan trọng giải thể lần quốc hửu hóa,
chuyển lần sang cổ phần hóa đi vào Tư Hữu Tư Nhân đưa đất nước đi lên. Thế Lực
Tam Vô đi vào đổi mới tạo ra Lưỡng Thế phân tranh hình thành trong Nhà Hồ. Thế
lực Tam Vô đi lần đến rạn nứt theo hai chiều hướng bảo thủ và hướng đổi mới.
Như Vậy câu 390
Bây Giờ, Sấm Động, Hỏi Người, Đông, Lân đã giải rõ.
Khi ấy có người hỏi Cụ Trạng rằng làm thế nào mà hiểu được
tình hình phân tranh rạng nứt ấy ?
Cụ Trạng lại nói theo quẻ Đoài ứng vào Lý Số hình thành câu
sấm như sau.
Câu 402:
Non Đoài, Vắng Vẻ , Bấy Lâu:
Non: Có nghĩa Non là Nước Non. Đài Có Nghĩa là phương Đông
Nam. Ý nói nước Việt Nam. Vắng Vẻ: Có nghĩa là những nước văn minh Đa Nguyên
Dân Chủ ít lui tới Việt Nam ít quan hệ giao dịch tạo ra thế vắng vẻ. Không có sự
tấp nập quan hệ trao đổi làm ăn. Chỉ ngoại giao với một số ít thế lực Cọng Sản
mà thôi. Bấy Lâu : có nghĩa mấy mươi năm cũng vẩn bảo thủ im lặng y như thế.
Như Vậy câu 402
Non Đài, Vắng Vẻ, Bấy Lâu đã được giải rõ.
Có người lại hỏi: Thưa Thầy;
Khi nảy Thầy nói có người làm cho thế lực Tam Vô nổi lên sấm
động, tức là phân tranh nội bộ. Sự phân tranh đó như thế nào? đi vào cuộc diện
đổi mới ra làm sao? Xin thầy giải rõ cho. Cụ Trạng liền đọc câu sấm;
403: Có Một, Đàn, Xà, Đánh Lộn Nhau:
Có Một : Có nghĩa là : duy nhất một thể chế độc tài độc trị
Thống trị toàn quyền Đại Việt.
Đàn Xà: Có nghĩa là Bầy Rắn, ám chỉ thế lực Tam Vô là thế lực
độc tài toàn trị, tàn độc thủ đoạn nằm im bảo thủ không khác gì thế lực của một
bầy Xà Tinh. Đánh Lộn Nhau. Có nghĩa nổi lên phân tranh theo nhiều chiều hướng
khác nhau. Không còn thống nhất với nhau. Kẻ muốn phát triển đi lên, người muốn
níu trì lạc hậu.
Như vậy câu 403
Có Một, Đàn Xà, Đánh Lộn Nhau đã được giải rõ.
Thưa Thầy, thầy có thể diễn tả sự phân tranh theo chiều hướng
khác nhau trong một thể chế Tam Vô ra làm sao để cho các để tử hiểu;
Cụ Trạng liền ngâm tiếp câu sấm.
404 Vượn Nọ, Leo Cành, Cho Sĩ Bóng: Có nghĩa Vượn chủ trèo
lên cây phất cờ mở màn cho cuộc các cầu thủ phân tranh đá bóng. Đá qua đá lại.
Kẻ bảo thủ người đổi mới đi lên tranh luận trên diễn đàn chính trị quyết liệt.
Như vậy câu sấm 404 được giải rõ.
Cụ Trạng ngâm tiếp câu
405 Lợn Kia, Làm Quái, Phải Sai Đầu: Có nghĩa trong trận đấu
đi vào đổi mới người Mặt Lợn đá sai chệch Luật sai chiều hướng, lệ thuộc ngoại
bang. liền bị đồng bọn đuổi ra khỏi cuộc chơi. Cách chức không cho tham gia trận
đấu nữa, may chút nữa là đứt đầu Sài Đầu. Câu 405 cũng được giải rõ.
Trận đấu cứ thế diễn ra tiếp tục đi vào câu sấm.
406 Chuột Nọ, Lăm Le, Mong Cản Tổ:
Chuột Nọ: Là ý nói đến Chuột Quan, Chuột Quyền. Lăm Le: Có
nghĩa là hăm dọa. Mong: Có nghĩa là muốn. Cản: Nghĩa là can ngăn. Tổ: Có nghĩa
là chung nhau một tổ Thể Chế chủ trương chính sách. Thế Lực Tam Vô sống chung
trong thể chế nầy. Ý nói toàn câu sấm là có một thế lực Quan Quyền, hăm dọa,
can ngăn không cho hành động theo chủ trương. Nói vậy nhưng không cho làm vậy.
Miệng nói dân chủ nhưng không cho dân chủ. Miệng nói tự do nhưng không cho tự
do. Sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy để hiểu rõ thêm Cụ Trạng liền ngâm câu sấm.
407 Ngựa Kia, Đủng Đỉnh. Bước Về Tàu :
Ngựa, Kia: Có nghĩa ám chỉ kiếp Trâu Ngựa tôi trung. Đủng Đỉnh:
Có nghĩa là chậm rãi làm theo chủ trương chính sách nhà nước. Về Tàu: Có nghĩa
nằm yên trong chủ trương. Vì chữ Tàu ở đây không ám chỉ nước Tàu. Mà ám chỉ câu
thành ngữ ( một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ) Ý nghĩa của toàn cấu Sấm Là kiếp
làm Tôi Trung sai đâu làm đó nhưng cứ chậm rải mà làm không cần vội, chuyện
chung toàn đảng nào phải chuyện của mình. Cứ nằm yên trong chủ trương mà hưởng
phúc. Có lợi cho mình thời làm không có lợi thời thôi. Cớ chi phải đụng chạm đấu
đá nhau cho bỏ mạng. Loại bỏ Tham Quan họ chưa chết mình đã ngủm cù đèo. Sự bất
lực làm trong sạch bộ máy. Đây cũng là Ý Trời vì Thế Lực Tam Vô đã đi đến hết số.
Đi đến lần kết thúc của thế lực Tam Vô. Để cho đám học trò thấu hiểu. Cụ Trang
lại đọc thêm câu sấm.
408 Hùm Ở Trên Rừng, Gầm mới dậy:
Hùm: có nghĩa là Cọp ám chỉ cho thế lực mạnh như hùm;
Ở Trên Rừng: Có nghĩa là nằm trong chủ trương, nằm trong Thể
Chế nằm trong chính sách chồng chéo như rừng đẫy rừng luật đi trước hành động
theo sau cho an toàn. Cụ Trạng thở dài nghĩ đến cảnh làm quan triều đại Nhà Mạc
mà buồn rười rượi. Cụ nói một triều đại bao giờ cũng có hai thế lực. thế lực của
Long và của Hổ. Long và Hổ thường sống chung, đi đôi với nhau. Ví Dụ Vua là
Long, Tướng là Hổ . Nhưng Thái Ất Lý Số hình thành lên câu sấm ở đây không nói
đến thế lực của Long mà nói đến thế lực của Hổ. Có thể ví dụ thế lực của Đảng
là Long. Thế lực thủ Tướng chính phủ là Hổ. Ở đây ám chỉ nói Hổ ở trên rừng Ý
nói Thế Lực Hổ đang nằm trong Văn Bản chồng chéo dày bịt như rừng bổng nổi lên
gầm gừ. Gầm: Có nghĩa thị oai. Mới dậy : Có nghĩa những con Hổ xưa nay ngủ yên
trong thể chế Bảo Thủ Thức Dậy gầm gừ, có nghĩa là phản đối không nhất trí. Mà
xưa nay Hùm chưa bao giờ dám gầm lên như thế, phản đối trước uy lực của Long có
thể nói là chống lại đảng. Sao lại có chuyện lạ đời như thế ? Hùm dựa vào đâu?
mà không sợ Long. Cụ Trạng lại cho biết thêm câu sấm.
409 Tìm Về , Quê Củ , Bắt Ngựa Tàu
Tìm Về : Có nghĩa quay trở vế . Quê Cũ: Có nghĩa là Truyền
Thống Nguồn Cội Ông Cha Anh Linh Dân Tộc. Hùm đã có chỗ dựa vững chắc vào Truyền
Thống Anh Linh Dân Tộc Hùm không còn sợ Long nữa. Khi Long bỏ Nguồn Cội cúi đầu
trước học thuyết Mác Lê ngoại ban. Ý nói Thế Lực đổi mới Chu Du Chính Phủ Hùm.
Không còn sợ thế lực Độc Tài Đảng Trị theo Mác Lê ngoại lai nữa. Mà còn Trở lại
Bắt Ngựa Tàu. Ý nói Bắt những con ngựa xưa nay đã từng là đồng đội đồng chí
cùng chung một xuồng một Tàu. Dẫn đến tình thế Kẻ bắt qua, người bắt lại thôn
tính nhau. Bỏ tù nhau Kẻ tôn thờ giáo thuyết Phương Tây. Người tôn thờ Nguồn Cội
Ông Cha. Trở mặt nhau. Không tùng phục nhau nữa.
Như vậy từ câu 402 đến câu 409 đã được giải rõ.
Non Đài, Vắng Vẻ, Bấy Nhiêu Lâu
Có Một, Đàn Xà, Đánh Lộn Nhau
Vượng Nọ, Leo Cành, Cho, Sĩ, Bóng
Lợn Kia, Làm Quái, Phải Sài Đầu
Chuột Nọ, Lăm Le, Mong Cản Tổ
Ngựa Kia, Đủng Đỉnh, Bước, Về Tàu
Hùm Ở , Trên Rừng, Gầm, Mới Dậy
Tìm Về , Quê Cũ, Bắt Ngựa Tàu
* * *
Hết phần 3 mời các bạn xem tiếp phần 4 về tài tiên tri của Cụ
Trạng Nguyển Bỉnh Khiêm một kỳ tài sanh ra ở thế kỷ 16 làm quan trong thời Mạc
---------------------------------------
HUYỀN CƠ SẤM GIẢI
TAM THẾ PHÂN TRANH
THIÊN CƠ HÉ LỘ
Ý TRỜI ĐÃ ĐỊNH, KHÔNG AI LÀM KHÁC CHI ĐƯỢC
PHẦN 4
Thế lực đổi mới Chu Du lớn lần theo năm tháng từ trong thế lực
Tam Vô khó mà nhận thấy. Cho đến khi Cơ số 9 gặp lại con số 9 ứng vào câu :
4010 Cửu Cửu Kiền Khôn Dĩ Định thời mới lộ rõ thế lực Chu Du
cầm tinh thế lực con Lân ra đời.
9 lần 9 = 81: 8 + 1 = 9 thế lực Tam Vô đi vào hết số , nhưng
vẫn còn Cơ kéo dài thêm một thời gian nữa. Thế lực Tam Vô hết số vào năm 2011
năm tân Mão. Nhưng kéo dài đến 2020 năm canh Tý mới hết Cơ. Thế lực Tam Vô ra đời
ngày 3 - 2 - 1930 trải qua 81 năm đến 2011 thời hết số. Và kéo dài thêm 10 năm
nữa đi vào hết Cơ.
Cụ Trạng cho biết Cơ 10 năm là Cơ biến động toàn diện. Vì
cái nầy hủy diệt, thời cái khác lại sanh ra. Giai đoạn cực kỳ quan trọng cho một
chu kỳ mới kéo dài 10 thế kỉ đến 1000 năm. Tức là Kỷ nguyên 3000 năm. Cụ Trạng
chú nhất Quẻ Ứng Khảm Ly . Cơ Lý Số Nhị Ngũ Dư Bình đầy bí ẩn và phức tạp. Tất
cả mấu chốt diễn biến tình hình phức đều nằm trong 10 năm nầy.
379 Nhị Ngũ Dư Bình: Trong 10 năm nầy đi vào giai đoạn cuối
của Thế Lực Tam Vô. Cũng như Thế Lực Chu Du hình thành ra đời thế lực Lân càng
ngày càng lớn mạnh. Như chúng ta đã biết ( cái nầy diệt thời cái khác sanh ra từ
trong cái diệt) trong thời gian 10 năm nầy trải qua không biết bao nhiêu là biến
động trong nước cũng như thế giới. Sự khởi đầu bí ẩn của Cơ Nhị Ngũ Dư Bình bằng
pháp tính như sau. 5- 2 = 3 như vậy con số 3 là con số dư thừa. Con số quyết định
đi vào Cơ Tam Thế phân tranh. Khởi đầu vào năm Canh, Tân, Niên, Phá. 395 Canh - Tân : nằm trong thập thiên Can. Niên: Có Nghĩa là
năm. Phá: Có nghĩa là khai mở, có nghĩa là lộ ra. Ý nói kể từ cuối năm Canh Dần
2010 sang năm Tân Mão 2011 Thế lực Chu Du Chính Phủ ban hành ra nhiều sắc lệnh
đạo luật. Các chính sách ra đời Phá Vỡ mọi kìm hảm bảo thủ trước đây nhất là Luật
Đất đai. Cho phép Phá Điền đi vào những cánh đồng lớn theo chiều hướng hiện đại
hóa nông nghiệp. Cho phép Cổ phần hóa, giải thể lần Quốc Hữu Hóa Tam Vô. Sự đấu
đá xảy ra trong nội chính Tam Vô , Của hai Thế Lực. Tam Vô và Chu Du.
Nơi hải ngoại đây cũng là lúc Thế Lực Lưu Vong Hải Ngoại nắm
lấy thời Cơ. Ra sức tấn công vào Quốc Nội tao ra Tam Thế phanh tranh của ba thế
lực dần dần đi vào cạnh tranh quyết liệt kéo dài 10 năm. Cho đến Tuất, Hợi phục
sinh mới kết thúc Tam Thế phân tranh.
396 Tuất, Hợi , Phục Sinh. Có nghĩ năm Mậu Tuất 2018, năm Kỷ
Hợi 2019 là kết thúc Tam Thế phân tranh đi vào ổn định thượng ngươn Thánh Đức
ra đời. Thế lực Tam Vô từ chỗ hết số 2011 đi lần đến hết Cơ xóa sổ vào năm
2020. Khi Cơ Tam Vô đã kết thúc thời Thế Lực Chu Du. Thế Lực Lưu Vong hiệp nhau
chung lo việc nước. Vì hai thế lực nầy cùng chung Cơ Nhà Nguyễn.
Sự khởi đầu 2011 đi vào Cơ hủy diệt lần thế lực Tam Vô .
cũng là lúc 3 thế lực . Thế Lực Tam Vô, Thế Lực Chu Du. Thế Lực Lưu Vong đi vào
cạnh tranh càng về sau càng quyết liệt. Cụ Trạng cho biết sự cạnh tranh đó như
sau.
498 Long, Vĩ, Xà, Đầu, Khởi Chiến Tranh
Long là Rồng, Vĩ là đuôi: Có nghĩa là Hậu Thế Con Cháu Lạc
Long trổi dậy rất mạnh vào cuối năm Nhâm Thìn long 2012 đầu năm Tỵ rắn 2013 từ
trong Tam Thế Phân Tranh giác ngộ hiện ra. Thế Lực thứ Tư , thế lực của sự Dung
Hòa. Thế Lực đoàn kết thống nhất Ý Chí. Thế Lực Tôn Thờ Quốc Tổ. Thế Lực phát
huy truyền thống anh linh Cha Ông quang đại. Thế lực thứ tư nầy là từ trong ba
Thế Lực giác ngộ hiện ra. Thế Lực Thứ Tư, không từ đâu đến mà từ trong con người
Việt Nam. Từ trong con Rồng cháu Tiên tìm về với Cội với Nguồn. Tôn Thờ Cội Nguồn,
Phát huy Truyền Thống Anh Linh Dương Nội dân tộc. Thế Lực thứ Tư lần lần xuất
hiện tạo ra thế Long- Lân- Quy- Phụng . hiệp nhất. Một thế lực với sức mạnh
toàn dân tộc, liên kết trong nước ngoài nước. Đoàn Kết Thống Nhất vì đất nước
Việt Nam Vinh Quang. Với sức mạnh Tiên Rồng ấy không có một thế lực sức mạnh
nào đánh bại được. Tuy rằng Thế Lực thứ tư vẩn còn nằm ẩn trong ba thế lực.
Nhưng phát triển nhanh chóng mạnh vô cùng. Nhưng đó là nói về chuyện tam thế
phân tranh sắp đi vào chấm dứt mới xuất đầu lộ diện thế lực tứ trụ của thời
Thánh Đức. Những ai có dã tâm chống lại thế lực con Cháu Tiên Rồng đều bị Hồn
Thiên Dân Tộc, Khí Thiên Sông Núi hủy diệt. Vì Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang đã đi
vào hoạt động. Theo Cơ Thánh Đức vì Chí Tôn Thiên Đế Quốc Tổ đã trở về trần thế.
Cụ Trạng nói với các Môn Sinh không ai có thể chống lại huyền Cơ Thiên Ý Của Trời.
Mưu sự tại nhân, nhưng thành sự tại thiên.
Trong vòng 10 năm Từ 2010 đến 2017 thời dương quang xuất hiện,
chính là Văn Hóa Cội Nguồn, Quốc Bảo Chân Kinh cuộc diện Việt Nam đi vào Tam Thế
phân tranh, cũng dần đi đến hồi kết thúc. Theo cơ Bất Chiến Tự Nhiên Thành,
2018, 2019 Thánh Đức Phục Sinh đi vào huyền cơ mới. Trong thời gian 2010 đến
2017 Thế giới cũng đi vào bất ổn biến động lan tràn với những nước còn độc tài
độc trị. Sự biến động ấy Tiến lần lên Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ chuyển theo
huyền Cơ Vận Mệnh Ý Trời.
Còn những nước đã đi vào Hiến Pháp Đa Nguyên, Nhân Quyền Dân
Chủ thời bình yên vô sự. Để hiểu rõ tình thế bất ổn thế giới. Cụ Trạng ngâm qua
câu sấm, theo Lý Số ứng hiện.
399 Can Qua, Tứ Xứ, Loạn Đao Binh;
Có nghĩa tình hình trong nước đi vào Tam Thế phân tranh. Thời
tình hình thế giới đi cũng đi vào bất ổn chiến tranh, từ Tây sang Đông nhiều nước.
Như Ukrai na, Li Bi, Sy ria, Trung Quốc, Hoa Kỳ quần tảo biển đông, Trung quốc
gây hấn với Nhật, Bắc Hàn hăm dọa tấn công Nam Hàn và còn nhiều biến động chiến
tranh thế giới khác nữa vân vân. và ..
Sự phân tranh trong nội bộ Tam Vô bắt đầu 2011 càng lúc càng
tăng, đến 2014 - 2015 - 2016 thời tách hẳn nhưng không công bố. Cuộc diện tình
hình chuyển biến càng thêm phức tạp. Thế lực phục quốc hải ngoại ra sức tấn
công vào Quốc Nội triệt phá thế lực Tam Vô trên khắp cùng mặt trận ngõ ngách
tâm lý chính trị. Thế lực Tam Vô đã đến hồi suy vong, một mặt ra sức bảo thủ nắm
vững chính quyền , một mặt nhờ cậy thế lực đàng anh Trung Cọng ủng hộ. Nhất là
thủ tiêu cho ám hại những chủ chốt quan trọng của thế lực đổi mới Chu Du. Nhưng
nào phải dễ thế lực Chu Du không phải thế lực từ đâu đến. Mà là thế lực từ Tam
Vô hình thành lớn lên đi ra. Có thể nói . Mối, Mọt trong cây xuất hiện khó đối
phó vô cùng. Những mưu mô độc hiểm của Tam Vô , Chu Du đều hiểu rõ tất cả. Nên
cuộc diện đối mặt xảy ra những cuộc đánh lừa ngoạn mục, thế lực Tam Vô luôn
trong cảnh mắt mưu càng ngày càng suy yếu. Không còn con đường nào khác hơn, là
ném đá dấu tay, mượn thế lực hoa nam triệt phá danh dự tiêu diệt những nhân vật
tiêu biểu, của thế lực Chu Du. Bằng cách nói lên những việc làm sai trái. Hầu
kích động thế lực Chu Du tự tàn sát lẫn nhau. Nhất là triệt hạ nhưng căn cơ chủ
chốt đổi mới. Với cú đấm binh pháp gậy ông đập lưng ông. Chiến nầy nhất định đồng
chí chủ chốt đổi mới bị triệt hạ đi tiêu thời coi như thế lực Chu Du tan đàn xẻ
nghé. Thế lực Tam Vô độc bá quyền lực trở lại quét sạch lượm sạch đi vào quốc hữu
hóa trở lại. Không còn một mống cổ phần hóa tư hữu tư nhân. Theo sự điều khiển
của Tàu Cọng.
Thế Lực bảo thủ Tam Vô Không ngờ. Thế lực Chu Du là thế lực ứng
thuận Cơ Trời hiển linh Cơ Nhà Nguyễn. Chơn mạng đồng chí đổi mới có sự hổ trợ
Thần Linh. Nhất là Chơn mạng Ngưu Tinh đi vào Cơ số 5 con số của Cơ Thánh Đức
nên an toàn vô sự vì có Trời che chở, Thánh, Thần phù trợ. Đúng với câu mưu sự
tại nhơn, nhưng thành sự tại Thiên do Ý Trời. Thế lực bảo thủ Tam Vô không những
không triệt phá được thế lực Chu Du đổi mới cơ Nhà Nguyễn, mà càng làm cho thế
lực Chu Du Nhà Nguyễn lớn mạnh như thổi. Dẫn đến không còn cách nào kìm hảm thế
lực Chu Du được nữa. Thế Lực Chu Du đủ sức mạnh đè bẹp thế lực bảo thủ Tam Vô.
Cụ Trạng nói theo Thái Ất Lý Số Thế Lực Chu Du Nhà Nguyễn lớn mạnh như vậy là
có người đở đầu. Người ấy dù là đỉnh cao của Thế Lực bảo thủ Tam Vô. Nhưng mang
trong mình Họ Nguyễn . Đây cũng là điều bí ẩn kỳ lạ không ai có thể ngờ được.
Người đở đầu cho Thế Lực Chu Du lớn mạnh thành công trong công cuộc đổi mới.
Người đó mới thật là người kỳ tài. Nhưng theo Cơ Lý Số nổi tiếng là Lú mới lạ
làm sao. Phùng Khắc Khoan nói thưa Thầy: Có phải người nầy khôn khéo đến mức giống
như người Lú. Đã là người như thế thời chí nhẫn nhịn, nhẫn nhục, nhẫn nại không
còn lường được nữa. Người nầy hành động khôn khéo chỉ có trời đất mới biết được
mà thôi. Cụ Trạng nói đúng thế người nầy bề ngoài luôn đối lập với những với những
gì đổi mới nhưng bề ẩn luôn che chở cho sự đổi mới . Để cho thế lực đổi mới
thành công, sự bảo bọc che chở ấy khéo léo đến mức không khó có ai nhận ra được.
Có người đến hỏi Cụ Trạng người đó là ai ? Cụ Trang có vẻ cao hứng khi nói đến
người nầy ngâm nga lại câu sấm. Theo Lý Số ứng Cơ của Trời.
418 Dục, Đức, Thánh Nhân Vương;
Có nghĩa là : Muốn biết Thánh Nhân Vương thời tìm hiểu qua
những câu sấm dưới đây.
419 Quá, Kiều. Cư Bắc Phương.
Quá : Có Nghĩa là hết mức,vượt trên giới hạn. Nói chung là địa
vị tối cao. Kiều: là xinh là là đẹp, mặt ẩn là Phú, mặt nổi là Trọng. Quá Kiều
ý nói Địa vị cao tột mặt Ẩn là Phú, mặt hiện là Trọng. Nói chung người nầy tài
trí , nhẫn nhục không ai có thể lường được. Cư Bắc Phương: người nầy ở phương bắc,
không phải phương nam. Quá, Kiều , Cư, Bắc Phương :
Có người lại hỏi người ấy Họ gì ? Cụ trang lại đọc câu sấm
thay cho câu trả lời;
420 Danh Vi , Nguyễn Gia Tử.
Có người lại hỏi: người ấy thuộc hạng người nào ? Cụ Trạng đọc
lại câu sấm thay cho câu trả lời.
422 Thượng Đại Nhân, Bất Nhân.
Có nghĩa nói Đại Nhân cũng đúng. Bất Nhân chẳng sai
Có người lại hỏi người gì mà kỳ vậy ? Cụ Trạng đọc câu sấm
thay cho câu trả lời;
Thánh Ất, Dĩ, Vong Ân
Có nghĩa là Bậc Thánh, nhưng không theo chí hướng của Thầy
vì Thầy đã đi sai đường lạc lối. Làm trái ngược lại lời dạy của Thầy. Cứu lấy
dân tộc mình.
Có người lại hỏi, chơn mạng vi Thánh đó là vị nào trong các
đời vua chúa trước đây ? Cụ Trạng đọc câu sấm thay cho câu trả lời.
424 Bạch Hổ Kim, Đai Ấn;
Có nghĩa là Quang Trung tái sanh
Có người lại hỏi dân chúng có thể nhận biết Ngài là đấng cứu
tinh mở màng thành công trong cuộc đổi mới đất nước không ? Cụ Trạng đọc câu sấm
thay cho câu trả lời.
425 Thất Thập, Cổ Lai Xuân;
Có nghĩa là : Người nầy trên 70 tuổi thời người ta mới Phát
Hiện nhìn thấy được Công Cứu Nước. Cái tài ẩn nhẫn tuyệt vời của Ngài.
* * *
Hết phần 4 mời các Bạn xem tiếp phần 5 về cái tài tiên tri Cụ
Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán về vận mạng biến động của đất nước Việt Nam,
liên quan đến toàn thế giới.
--------------------------------
HUYỀN CƠ SẤM GIẢI
TAM THẾ PHÂN TRANH
PHẦN 5
Tiếp theo
Có người hỏi Cụ Trạng rằng ngoài vị Thánh Nhân Vương nói
trên còn có vị Thánh Nhân Vương nào ra đời ở vào thời Tam Vô Cọng Sản cùng thời
Thánh Nhân Vương nói trên không ?
Cụ Trạng đọc lên những câu sấm thay cho lời giải đáp.
444 Bảo Sơn, Thiên Tử Xuất,
Bảo Sơn: Bảo có nghĩa là ám chỉ cho Quốc Bảo. Sơn có nghĩa
là Núi Quý. Thiên Tử Xuất: Thiên là Trời Tử là con Xuất là xuất hiện. Ý nói Quốc
Bảo chính là Thiên Tử Xuất, do Quốc Tổ Hùng Vương con trời nói ra đã chuyển đến
Núi Thất Sơn. Đi vào cơ Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Như vậy câu sấm Bảo, Sơn.
Thiên, Tử, Xuất, đã được giải rõ.
445 Bất Chiến, Tự Nhiên Thành;
Bất Chiến: Có nghĩa là không cần đánh. Chỉ cần hành động
theo cơ Bất Chiến, ý nói con cháu Tiên Rồng hướng về Cội Nguồn, phát huy Văn
Hóa Cội Nguồn tôn thờ Quốc Bảo, Tự Nhiên, Thành : Ý nói Hành Động làm theo quy
luật Tự Nhiên Cây có Cội, Nước có Nguồn theo Huyền Cơ Bất Chiến đã định. Thời
cơ Tự Nhiên Thành sẽ đến. Vì trên hợp lòng Trời, dưới hợp lòng Dân. Như vậy câu
sấm 445 Bất Chiến, Tự Nhiên, Thành, được giải rõ.
Cụ Trang nói ở vào thời ấy có Thánh Nhân Vương xuất hiện,
cùng thời với Thánh Nhân Vương ở Bắc. Các học trò hỏi người ấy xuất hiện ở Nam
hay Bắc ? Cụ Trang liền ngâm câu sấm.
446 Thủy, Trung, Tàng, Bảo Cái ;
Thủy : Ám chỉ nơi miền sông nước. Trung : có nghĩa là vừa
không lớn không nhỏ. Tàng: có nghĩa là Tàng Lọng Bảo Cái : có nghĩa là nơi ngai
vua có tàng lọng
Ý nói câu sấm 446 nầy, ám chỉ miền sông nước có Minh Quân
nay giọi là Tổng Thống ra đời. Như vậy câu sấm 446 Thủy, Trung, Tàng, Bảo Cái,
đã giải rõ.
Cụ Trang lại ngâm tiếp câu sấm mà huyền cơ đã cho biết, cụ
ngâm.
447 Hứa Cập, Thánh Nhân Vương;
Hứa: Có nghĩa là Hẹn. Cập: Có nghĩa là trở Lại. Thánh Nhân
Vương: Hàm ý Bậc Minh Quân thời văn minh chính là Tổng Thống.
Ý nghĩa toàn bộ câu sấm là. Một vì Quang đứng đầu trăm quan
ra đi rồi lại trở về thành Thánh Nhân Vương tức là Tổng Thống trong thời Thánh
Đức. Như vậy câu sấm 447 đã được gải rõ.
Có người hỏi Cụ Trạng quê Thánh Nhân Vương đó ở đâu? Cụ Trạng
nói. Ngài sanh ở đâu điều đó không quan trọng, chỉ cần hiểu người lớn lên từ
đâu? Cụ Trạng liền ngâm câu sấm.
448 Mộc Hạ, Châm Châm, Khẩu;
Mộc Hạ: Có nghĩa là Rừng U Minh Hạ, Châm Châm: Có nghĩa là
liên kết với sông theo chảy ra cửa Khẩu cửa biển. Người lớn lên từ quê hương nầy.
Có người hỏi địa linh nầy nằm ở đâu ? Cụ Trạng đọc câu sấm
thay cho câu trả lời.
449 Danh Thế, Xuất, Nam Lương;
Nếu chúng ta liên kết hết lại từ câu 444 đến câu 449 thời có
thể hiểu địa linh dưỡng nuôi Ông Thánh lớn lên ở đâu ?
Địa Linh nầy ở Phương Nam. Nam Lương Tây Nam. Miền Sông Nước
UMinh Thượng. U Minh Hạ Có nhiều con sông chảy ra biển. Như vậy hai câu sấm
liên kết với nhau 448- Mộc Hạ, Châm Châm, Khẩu. 449 Danh Thế Xuất Nam Lương. Đã
được giải rõ.
Có người lại hỏi Ông Thánh đó họ gì? Cụ Trang ngâm nga câu sấm
thay cho câu trả lời.
450 Danh Vi, Nguyễn Gia Tử;
Ý nói Thánh Nhân Vương Họ Nguyễn
Có người lại hỏi tiền thân Thánh Nhân Vương trước kia là vị
vua nào đầu thai?
Cụ Trang ngâm nga câu sấm thay cho trả lời.
451 Tinh Bản, Tại Ngưu Lang;
Tinh Bản: Có Nghĩa bản nguyên sao chép tái hiện của nhiều tiền
kiếp. Chơn Mạng Tinh Bản nầy Cầm Tinh Con Trâu , Ngưu Lang : Ý nói là Bậc Tướng
Tài nhà trời.
Ý nói Thánh Nhân Vương, Họ Nguyễn nầy Cầm Tinh Con Trâu. Tiền
thân là Vua Hàm Nghi. Cũng Chính là Vua Lê Lợi năm xưa.
Có người lại hỏi Hai Vị Minh Quân ra đời. Kẻ ở Bắc Hà đất Bắc.
Người ở miền sông nước đất Nam Bảo Sơn liệu hai Minh Quân cùng thời như thế
không lẽ chia Nam- Bắc phân tranh nữa sao? Như thời sau nầy Hồ , Ngô đồ thán.
Trịnh , Nguyễn phân tranh. Nguyễn, Nguyễn đánh nhau tương tàn nồi da nấu thịt.
Cụ Trạng nghe nói thế liền mỉm cười nói. Đã nói là Thượng Ngươn Thánh Đức thời
nhân tài hiện ra như nấm. Bước đầu dựng ngơn Thánh Đức có tới 72 vị Minh Quân lần
lượt xuất hiện ra đời. Tất cả đều phò Quốc Bảo nền Văn Hiến Thiên Luật Ông Cha
trở lại. Nên không có sự phân tranh trong 72 vị Minh Quân nầy. Mà cùng chung
lòng xây dựng một thế giới văn minh hiện đại nói chung, Việt Nam nói riêng.
Để hiểu rõ về Tam Thế phân tranh một cách cụ thể , mời các Bạn
nghiêng cứu những đoạn văn Cơ sau đây.
1, thế lực Lưu Vong.
2, thế lực Chu Du.
3, thế lực Tam Vô.
- Thế lực Lưu Vong chính là thế lực Việt Kiều phục quốc hải
ngoại.
- Thế lực Chu Du chính là thế lực đổi mới từ trong Tam Vô cọng
sản tách ra.
- Còn lại là Thế lực Tam Vô bảo thủ Cọng Sản.
Ba thế lực nầy tranh nhau càng về sau càng quyết liệt. Vì đã
đi vào Cơ thượng ngơn Thánh Đức. Là Cơ Ngơn của Trời ấn định Cơ đi vào Thánh
Chiến. Thánh Chiến là đấu tranh bằng Công Lý và lẽ phải. không phải tranh đấu bằng
gươm đao giáo mác như giai đoạn mạc vận mạc pháp ở giai đoạn thế kỷ 20. Cũng
không giống Thời kỳ Phong Thần, thời Chu diệt Ân . Mà là tranh đấu bất bạo động
bằng biện pháp triết lý đấu tranh ôn hòa chính trị giữa cái Ác và cái Thiện, giữa
cái Lợi và cái Hại để đi đến tiếng nói chung. Bước vào thời kỳ thượng ngươn
Thánh Đức Phong Thánh. Có nghĩa người có công xây dựng đời Thánh Đức. Được Tổ
Tiên, Cha Trời, Mẹ Trời ấn chứng phong Thánh vinh hiển tột cùng.
Lại nói về ba thế lực tranh nhau không ai nhường nhịn ai cuối
cùng cũng có thế lực lếp vế trước đối thủ. Thế lực Chu Du lớn mạnh lấn áp. Thế
lực Tam Vô.
Vì sao Thế lực Chu Du mạnh đến thế. Vì Thế Lực Chu Du là thế
lực đổi mới luôn nắm bắt thời cơ. Chuyển hướng tôn thờ Nguồn Cội phát huy Dương
Nội trở thành vô địch. Hai Thế Lực kia không thể nào theo kịp đành phải thất bại
thua to. Nhất là Thế Lực Tam Vô dần dần mất đi quyền lực.
Thế lực Lưu Vong xu thế hướng ngoại. Mà ngoại chính là Âm.
Đã âm thời Lỗ. Dương Nội mới Lời. ( chúng ta ai cũng biết Âm Lỗ, Dương Lời. Hiểu
được Nam- Nữ thời rõ Thế lực hướng ngoại dù cho mạnh cách mấy cũng không bao giờ
thắng được Thế Lực hướng nội. Đó là định luật Thiên Ý Cha Trời. Không ai có thể
đảo ngược được.
Thế lực Tam Vô xu thế bảo thủ tôn thờ chủ nghĩa Độc Tài. Thế
lực lỗi thời không theo kịp xu thế văn minh Đa Nguyên, Nhân Quyền Dân Chủ tiến
bộ thế giới. Nên thế lực Tam Vô bị hai thế lực Lưu Vong, thế lực Chu Du nhận
chìm dần dần không sao chống trả lại được. Thế lực Chu Du cuối cùng cũng lấn áp
Thế Lực Tam Vô cầm nắm toàn quyền đất nước đi vào Cơ Nhà Nguyễn . Thế lực Tam
Vô trở thành thế lực bù nhìn không còn cách gì xoay chuyển tình thế lấy lại chỗ
đứng được nữa. Biết rằng thế lực Tam Vô được Trung Quốc hậu thuẩn rất mạnh. Thế
lực Chu Du quá khôn ngoan luôn xoay chiều tình thế một mặt phát huy quang đại
Văn Hóa Cội Nguồn. Một mặt mượng oai thần Thế Lực Tư Bản , nhất là Hoa Kỳ kìm
chế Trung Cọng.
Thế lực Lưu Vong tuy hiểu tình thế suy yếu của thế lực Tam
Vô. Nhưng không thể làm chi được. Vì trong Thế Lực Tam Vô có thế lực Chu Du
đang lớn mạnh tiến đến nắm lấy chính quyền . Nên đành vô phương chống trả lật đổ
thế lực Tam Vô. Trả mối hận thù nhục nhã. Lưu Vong khốn khổ bấy lâu. Tuy biết vậy
trong thế lực Tam Vô , có Thế Lực Chu Du . Nhưng Thế lực Lưu Vong không thể bỏ
cuộc ra sức tấn công những trận đòn chính trị cao cấp. Phân tích đủ loại nước cờ
nhưng cuối cùng vẩn thấy mờ mịt bít lối không mong gì đi đến kết quả thành
công. Nếu chỉ có thế lực Tam Vô lỗi thời xơ cứng thóa hóa không, thời con đừng
phục quốc Thế Lực Lưu Vong không lấy chi làm khó. Vì có khối nước Tư Bản ủng hộ
nhất là Hoa Kỳ trợ giúp.
Nhưng đằng nầy không ngờ Trong Dương Nội, Thế lực Chu Du đổi
mới sanh từ trong Thế Lực Tam Vô. Càng lúc càng chiếm ưu thế. Với sức mạnh tôn
thờ Văn Hóa Cội Nguồn phát huy sức mạnh Dương Nội. Thế lực Chu Du vững như bàn
thạch vì đã nắm được mấu chốt đoàn kết sức mạnh toàn dân. Lại luôn khôn khéo đổi
mới chính sách. Đẩy Luật đi trước che chắn bảo vệ, hào lũy vững chắc về chủ
trương chính sách. Chu Du khôn khéo theo sau Luật hành động tiến dần tường bước,
khó Thế Lực nào tấn công chống trả được. Những bước đi của Chu Du là biết liên
kết ngoại giao các nước, liên kết các khối liên minh. Tạo thành thế mạnh. Thế lực
Lưu Vong, cũng như thế lực Tam Vô không sao bì kịp. Đành phải lếp vế không
tranh lại với Chu Du. Cụ Trạng nói. ( Ngày xưa Trung Nguyên Trung Quốc có Tam
Quốc, Thục - Ngô - Ngụy. Phân tranh. Còn 500 năm sau Việt Nam mở màn đi vào Cơ
Thánh Đức hiện ra Tam Thế phân tranh. Tam Vô - Chu Du - Lưu Vong. Hai giai đoạn
xưa và nay tuy khác nhau Thời Tam Quốc. Thế Lực Lưu Vong có Gia Cát Lượng. Ở thời
nay Thế Lực Lưu Vong không có Gia Cát Lượng. Mà Gia Cát Lượng nằm trong Thế Lực
Chu Du đổi mới.
* * *
Hết phần 5, mời các bạn xem tiếp phần 6 về tài tiên tri có một
không hai trên đời. Cụ Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm.
--------------------------------------------
HUYỀN CƠ SẤM GIẢI
TAM THẾ PHÂN TRANH
PHẦN 6
Tiếp theo
Trong ba thế lực. Thế Lực Tam Vô, là thế lực Vô Thần không nằm
trong diện tứ linh. Lại thêm Cơ vận suy diệt. Còn thế Lưu Vong cũng như thế lực
Chu Du là hai thế lực nằm trong tứ linh. Càng về sau càng mạnh cạnh tranh quyết
liệt với nhau. Thế Lực Lưu Vong, chính là thế lực hồi Quy, cầm tinh Kim Quy.
Thế lực Chu Du , chính là thế lực đổi mới hát ca nhảy múa, cầm
tinh Kỳ Lân. Hai thế lực nầy nằm trong diện Tứ Linh dù cho cạnh tranh thế nào
đi nữa kẻ thắng người thua cũng không dẫn đến chiến tranh đổ máu.
Theo cuộc diện thế lực Chu Du Kỳ Lân là thế lực Hướng Nội.
Còn thế lực Lưu Vong Kim Quy là thế lực Hướng Ngoại. Cả hai đều là cơ Nhà Nguyển
soi sáng cả thế kỉ 21. Nội cũng Nguyễn và Ngoại cũng Nguyễn. Vì vậy tuy hai thế
lực chống nhau nhưng cuối cùng cũng hiệp lại với nhau khi Văn Hóa Cội Nguồn Quốc
BảoVăn Hiến xuất hiện. Cùng chung lo vận mệnh đất nước. Hai thế lực nầy dù có
hiệp lại nhau cũng không thể nào đẩy lùi được sức mạnh bành trướng ngoại xâm Bắc
Kinh. Mà phải hội tụ đủ Tứ Linh. Long - Lân - Quy - Phụng đến lúc ấy không cần
đánh ngoại xâm cũng tự lui.
Từ trong ba thế lực Lưu Vong . Chu Du và Tam Vô sanh ra thế
lực thứ tư. Thế Lực giác ngộ trở về Cội Nguồn Tôn Thờ Quốc Tổ. Tôn Thờ Nền Văn
Hiến Quốc Bảo Hiếp Pháp, Luật Pháp. Đạo Pháp Tối Cao Bách Việt Văn Lang Thế lực
thứ tư chính là thế lực Long, Phụng, hiệp với hai thế lực Lân, Quy, thời ngoại
xâm không đánh cũng tự lui. Huyền Cơ là như thế hành sự sẽ thấy nhiệm mầu.
Không những Bất chiến tự nhiên thành hòa hợp trên đất nước Việt Nam. Mà cũng là
Cơ Bất Chiến Tự Nhiên Thành ở phạm vi toàn thế gới. Khi Văn Hóa Cội Nguồn tỏa
sáng khắp năm châu Việt Nam độc lập 3000 năm tới.
Để hiểu về vận mệnh ba thế lực phân tranh nầy. cũng như về
tài tiên tri Trạng Nguyển Bỉnh Khiêm ở vào giai đoạn cuối của thế Lực Tam Vô là
10 năm. Giai đoạn phân tranh Tam Thế. Của ba thế lực. Tam Vô. Lưu Vong và Chu
Du.
Muốn hiểu về tiên tri Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm phải hiểu
rõ Hiện Cơ và Hiện Cảnh. Hiện Cơ đi trước có khi đến bốn năm năm thời Hiện Cảnh
mới xuất hiện. Ví dụ cơ Đá Nổi Lông Chìm xuất hiện trước. Bốn năm năm sau mới
Hiện Cảnh Đá Nổi Lông Chìm. Ví Dụ: Cơ Đồng Khô Hồ Cạn hiện ra trước rồi sau đó
ba bốn năm mới Hiện Cảnh Đồng Khô Hồ Cạn. Cũng như gió tới trước rồi mưa mới xuất
hiện sau. Ví dụ cơ búa liềm dần dần biết mất thay thế vào đó là cơ Trống Đồng dần
dần xuất hiện. Cái nầy dần dần hủy diệt. Thời cái kia dần dần xuất hiện sanh
ra. Đó là quy luật tự nhiên cái gì đến thời nó sẽ đến không ai có thể ngăn cản
được. Thiên cơ cũng có nghĩa là Thiên Mệnh ý trời đã thế thời đành phải bó tay.
Nói đến Thiên Cơ của một Cơ Vận cuộc thế thời không bao giờ nói cho hết. Nhưng
không lẽ không nói thời làm sao biết được Cơ Trời, thuận theo đó để mà tồn tại.
Ông Cha Ta thường nói thuận Thiên thời còn nghịch Thiên thời mất. Đi ngược lại
Thiên Ý thời kể như xong đời.
Phùng Khắc Khoan thường hỏi cụ Trạng về nguồn gốc của Cơ.
Cũng như sự ra đời của những nhân vật chủ chốt thời Tam Vô.
Cụ Trạng trả lời cái đó phải có pháp thuật thần thông trí huệ
vô biên mới hiểu nổi. Mọi vạn vật cũng như một triều đại ra đời, đều có căn cội
của nó. Cũng như từ thời Nhà Đinh mở nước Đại Cồ Việt. Các tướng lĩnh qua đời
thường đầu thai chuyển kiếp trở lại, làm quan làm tướng. làm Vua qua các thời kỳ.
Muốn hiểu rõ sự chuyển kiếp ấy phải có thần thông trí huệ vô biên.
NGUỒN GỐC VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CƠ
Cụ Trạng nói: Những Vị Đắc Đạo trí huệ vô biên truyền lại rằng.
Cách đây năm nghìn năm Quốc Tổ Hùng Vương ra đời , mở rộng
nước Xích Quỷ về Nam. Khai Lập lên đất nước Văn Lang rộng lớn. Gồm thâu trăm Bộ
Tộc không đổ giọt máu Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Khi đó Quốc Tổ Vua Hùng chỉ là
Thái Tử Hùng Lan. Chưa lên ngôi Quốc
Vương Thiên Tử. Thái Tử dẫn anh hùng hào kiệt những nhân tài
xuất chúng trong Bách Tộc. Tiến về vùng đất Lãnh Nam đầy Yêu , Tinh, và Quỉ dữ.
Bách Tộc anh hùng hào kiệt tiêu diệt Yêu , Tinh và Quỉ dữ. Rồi cùng nhau Khai
Phá đất đai trở thành Điền Thổ. Hồ, Đồng, Giáp nối liền liên nhau khắp nơi rộng
lớn. Và con Trâu chính là cày Đồng xới Đất Phá Điền nền Văn Minh lúa nước vì thế
càng thêm rực rỡ hưng thịnh. Hùng Lang lên ngôi Thiên Tử lấy niên hiệu Hùng
Vương thời đại mới. Hùng Vương chính là Chí Tôn Thiên Đế Giáng Trần. Quốc Vương
Nước Văn Lang.
Như vậy câu sấm: Phá Điền Thiên Tử Xuất. Bất Chiến Tự Nhiên
Thành ở thời khai Cơ dựng nước đã rõ.
Quốc Tổ ở ngôi Quốc Vương 79 năm;
Khi Quốc Tổ về trời có lời Di Giáo truyền lại cho Bách Việt
Văn Lang. Khi nào dân tộc Tiên Rồng bách Việt Văn Lang làm chủ được Địa Long Vũ
Trụ. Tức là làm chủ Địa Long hình chữ S. Vân mệnh Địa Long đất nước Cơ ứng Hồ -
Đồng - Giáp. Cũng như thế lực Tam Vô ra đời. Thời Quốc Tổ mượn xác trần tái
sanh trở lại. Trong Huyền Cơ vũ trụ Ao , Hồ, Đầm, Đồng, Liên Thông có nghĩa là
Giáp tất cả đều có Linh Chủ.
Địa Long vũ trụ chính là Lãnh Nam Chính Quái. Địa Linh của
ba con Tinh Chúa làm chủ. Mộc Tinh, Ngư Tinh, Hồ Tinh. Khi Quốc Tổ Vua Hùng
cùng 100 bộ tộc mở mang bờ cõi vào Nam khai mở Địa Long Vũ Trụ . Đã giết chết
ba con Chúa Tinh. Mộc Tinh, Ngư Tinh, Hồ Tinh. Trong đó Hồ Tinh Chín Đuôi làm
chủ đất Lĩnh Nam với những Ao, Hồ, Đầm Lầy. Giáp liền với nhau. Quốc Tổ diệt Hồ
Tinh. Bách Việt cùng đàn Trâu thi nhau Phá Điền lập lên đất nước Văn Lang. Nhất
là phát triển nền văn minh lúa nước. Địa Long vũ trụ đất địa linh nơi nào cũng
linh thiên cả. Gọi là khí thiên sông núi. Đồng có Linh Đồng, Giáp có Linh Giáp.
Hồ có Linh Hồ. Khi Vua Hùng chưa chiếm lấy Địa Long vũ trụ, thời Hồ Tinh Chín
Đuôi làm chủ Linh Đồng, Linh Giáp, Linh Hồ nầy. Khi đất nước Văn Lang đi vào ổn
định. Quốc Tổ nhìn những cánh đồng bao la bát ngát. Cũng như Ao Hồ rộng lớn
liên giáp với nhau tỏa khí linh bao phủ. Quốc Tổ nhìn thấy rõ hơn hai nghìn năm
nữa thời Linh Đồng, Linh Giáp, Linh Hồ sẽ mờ dần và biến mất, sau 3000 nghìn
năm. Và xuất hiện trở lại ở giai đoạn mạc vận, mạc pháp, mạc kiếp gần 5000 năm
Cơ Hồ - Đồng - Giáp hiển linh. Thời Hồ Tinh cũng đầu thai trở lại, giành lấy Địa
Long Làm chủ thiên hạ con cháu Tiên Rồng.
Lại nói về Hồ Tinh chín đuôi bị Quốc Tổ giết chết Linh Hồn
phiêu bạc nơi phương Bắc. Vì quá hiển linh nên được dân chúng Huyện Cao Mai Tôn
Thờ. Nhưng cái tật thích ăn thịt trẻ thơ, Nên dân chúng cúng nạp trẻ con cho Hồ
Tinh Chín Đuôi. Ông Khiết khi ấy đang làm quan lớn nghe Hồ Tinh bá đạo như vậy
liền dẫn theo binh lính đập phá miếu không cho dân thờ Hồ Tinh nữa. Hồ Tinh ôm
hận trả thù. Dòng giỏi Ông Khiết đến thời Thái Ất Thành Thang thời lập ra Nhà
Thương. Hồ Tinh chờ Nhà Thương đến thời suy vận. Liền đầu thai làm con của Đế Ất,
ra đời tên gọi là Ân Thọ. Vì mối thù truyền kiếp Ân Thọ Vương phá tan cơ nghiệp
Nhà Thương. Tiến quân đánh chiếm nước Văn Lang giành lấy lại Địa Long vũ trụ .
Đất Lĩnh Nam Chính Quái. Tức là Miền Nam nước Văn Lang. Nhưng bị Bách Việt Văn
Lang đánh bại thê thảm. Trụ Vương Ân Thọ chết Linh hồn bay lên trời làm chủ
ngôi sao Phá Quân. Thường chiếu mệnh phá hoại những minh quân vì dân vì nước. Ở
giai đoạn mạc vận, mạc pháp, mạc kiếp. Giai đoạn phù hợp Hồ Tinh. Hồ Tinh từ
sao Phá Quân nhìn thấy khí số Hồ - Đồng - Giáp hiển linh ra đời. Liền đầu thai
xuống trần nương danh Họ Nguyễn khi thành công thời trở lại Họ Hồ.
Hồ Tinh ứng hiện vào con số 9 tức là chín đuôi ứng theo số
pháp tu luyện hàng triêu triệu năm. Hồ Tinh theo chủ nghĩa Tam Vô. Tôn thờ Mác
- Lê. Mác là Mộc Tinh núi. Lê là Ngư Tinh sông. Hồ Tinh Cáo Già ở Hang. Điều nầy
ứng rõ khi nhà Hồ xuất hiện.
Như vậy Cơ Hồ - Đồng - Giáp tái hiện ra đời cũng đã rõ.
Thời Tam Vô là thời Cọng Sản quốc tế Búa Liềm. Búa Liềm xuất
hiện thời Hồ - Đồng - Giáp ra đời ăn khớp với nhau. Búa Liềm là hiện thân Công,
Nông liên quan đến Hồ, Đồng, Giáp ăn khớp nhau cũng đã rõ.
Như vậy mọi sự việc ra đời, cũng như hủy diệt mất đi đều có
căn nguyên ứng hiện của nói. Tất cả đều có căn có cội. Ứng theo Luật Tuần Hoàn
Tự Nhiên, Luật Nhân Duyên, Nhân Quả theo Cơ số chuyển xây của huyền Cơ.
Như vậy Hồ - Đồng - Giáp ứng hiện ra đời đã rõ.
Nhà Hồ ứng hiện ra đời Cơ số 9 Cửu và dần dần đi đến trùng lặp
con số 9. 9 lần 9 trùng lặp Cửu Trùng là hết Cơ trải qua 81 năm. Tám cọng một
cũng là chín Hết Số Và đi vào cơ thái hóa hủy diệt.
Như vậy câu sấm Cửu Cửu Càn Khôn Dĩ Định đã rõ. Cho thấy Nhà
Hồ Cơ Trời ấn định chỉ có 81 năm là hết số. Đi vào Cơ hủy diệt kéo dài 10 năm hết
Cơ. Cơ cuối cùng của con số 9 lần 9= 81, 9 lần 10.= 90.
Có nghĩa là thêm giai đoạn 9 lần 10 cơ thái hóa hủy diệt Nhà
Hồ kéo dài 10 năm rồi đi đến chấm hết.
Như vậy câu sấm Nhị Ngũ Dư Bình đã rõ.
Trong cơ hủy diệt 10 năm sau cùng của Cơ số 9. thời có 72
Minh Vương lần lần xuất hiện đi vào Cơ số 5. Cơ số Trung Ương. Trong 72 vị Minh
Quân có nhiều vị Ngưu Tinh dòng họ Nguyễn là nhiều hơn cả. mở màn đi vào Cơ Phá
Điền đi vào thời đại mới, cũng là lúc Quốc Bảo Xuất hiện khắp cùng đất nước.
Nhưng chưa tỏa sáng, khi Quốc Bảo đến Giang Môn. Tức là đến miền đầu Rồng Sông
Cửu Long thời bừng tỏa sáng cả nước.
* * *
Hết phần 6 mời các bạn xem tiếp phần 7 về tài tiên tri của Cụ
Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phải nói là không ai có thể bì kịp.
---------------------------------------
HUYỀN CƠ SẤM GIẢI
TAM THẾ PHÂN TRANH
PHẦN 7
Tiếp theo
Lại nói về Phá Điền tái hiện trở lại. Nhưng Lại khác hơn thời
khai cơ dựng nước Văn Lang. Thời đó là Phá Điền khai khẩn đất đai thành Ruộng,
thành Đồng, thành Hồ Giáp liền liên thông với nhau. Khai dựng lên đất nước Văn
Lang. Thiên Tử con Trời ra đời trị quốc.
Còn thời đại ngay nay Phá Điền đi vào Cơ. Khai Mở Tâm Điền.
Khi Mở Đan Điền, Khai Mở Danh Điền. Đi vào cơ Thượng Ngươn Thánh Đức.
Phá Điền ở đây. Có nghĩa là Khai Mở màn bí mật Tâm Linh vũ
trụ cũng như Vật Chất vũ trụ. Khai Mở làm cho nhân loại sáng tỏ Cội Nguồn nhân
loại từ đâu sanh ra. Linh Hồn cũng như Chân Tâm, Chân Tánh từ đâu mà có. Làm
Sáng tỏ Danh Điền, như Địa Long Vũ Trụ hình chữ S tức là Địa Linh Thánh Địa Việt
Nam mà huyền cơ Thiên Ý ấn chứng thành danh. Sự Phá Điền tái hiện thời Thánh Đức
khác với sự Phá Điền thời khai mở dựng nước Văn Lang. Thiên Tử Xuất thời dựng
nước Văn Lang chính là Quốc Tổ. Thiên Tử thời Thánh Đức sau năm nghìn năm chính
là Văn Hiến Quốc Bảo. Do Anh Linh Quốc Tổ lâm phàm trở lại nói ra. Thấy Quốc Bảo
thời coi như đã thấy Quốc Tổ. Mà Quốc Tổ chính là Thiên Tử Con Cả Chúa Trời
cũng chính là Con Cả Cha Trời. Chí Tôn Giáng Trần. Anh cả của Phật, Thánh,
Tiên, Thần, Chúa.
Như vậy câu sấm: Phá Điền Thiên Tử Xuất ở thời lặp lại thượng
ngươn Thánh Đức đã rõ.
Thiên Tử Xuất chính là Văn Hiến Quốc Bảo. Và chỉ có Văn Hiến
Quốc Bảo mới hàng phục Ma Vương, Đại Quỷ, cũng như gồm thâu Tam Giáo Quy
Nguyên, Ngũ Chi Hợp Nhất nhân loại khắp năm châu bốn biển một nhà, mà không cần
xảy ra xung đột chiến tranh. Bất Chiến Tự Nhiên Thành.
Câu sấm: Bất Chiến Tự Nhiên Thành cũng đã rõ.
* * *
Bàn về sấm cơ nói về thế lực Tam Vô. Cơ Tam Vô ứng hiệp vào
con số 9. Thành lập vào ngày 3 - 2 - 1930 đến 2011 hết số. Chỉ còn Cơ kéo dài
thêm 9 năm nữa mà thôi là hết Cơ. Cơ Tam Vô Cọng Sản thịnh hành trải qua một thời
gian dài đến khi trùng lặp lại con số 9 đã trải qua 81 năm. Coi như hết số. Chỉ
còn Cơ trớn 9 năm nữa mà thôi là hết cơ. Chạm con số mười có nghĩa là 9 lần 10
= 90 là đi vào kết thúc Cơ Tam Vô vào năm 2020.
Theo quy luật chu kỳ giai đoạn 10 năm tử diệt giai đoạn cuối
từ năm 2011 đến 2020 Cơ Tam Vô, chuyển diệt lần theo điềm báo Cơ sấm.
Như câu. Hiện Cơ Đá Nổi, hiện Cơ Lông Chìm, hiện Cơ Đồng
Khô, hiện Cơ Hồ Cạn, hiện Cơ điềm cá chết, điềm Rùa chết, và nhiều điềm khác nữa
vân vân v..
Từ 2011 đến 2014. giai đoạn chuyển hóa hiện cảnh. 2015- 2016
thời hiện rõ của Cơ nhìn thấy rõ Đá Nổi, Lông Chìm. Đồng Khô Hồ Cạn Búa Liềm dần
dần thế thay bằng Trống Đồng. Đến năm 2020, thời Cơ Tam Vô Búa Liềm đi vào chấm
hết.
Cũng cùng thời gian 10 năm đi vào Cơ hủy diệt Tam Vô thời Cơ
mới Thánh Dức cũng xuất hiện sanh ra từ 2011 Cơ mới ứng hiệp vào con số 5. Cũng
sanh ra nhiều điềm lạ báo trước điềm lành. Như vậy Cơ Sanh - Cơ Diệt đều có sự
báo điềm báo trước. Đến năm Giáp Ngọ Mã Đề thời chuyển mạnh, đến năm Ất Mùi
Dương Cước, Trời Chuyển Ý nói Văn Hiến Quốc Bảo xuất hiện chính là Thiên Ý của
Trời Không ai có thể chống lại được. Cơ Anh Hùng lạc đạo đi lần đến tự diệt.
Chuyển đổi theo chiều hướng khác. Anh Hùng chánh Đạo ra đời. Sao rụng và Sao mọc
hai cảnh giới thi nhau xuất hiện. Đuốc đi dần vào tắt. Đuốc bừng lên tỏa sáng.
Có nghĩa cái nầy mất đi, cái khác lại ra đời. Đồng hành song song nhau. Cái
sanh cái diệt.
Như vậy cấu sấm: Mã Đề, Dương Cước, Anh Hùng Tận đã rõ. 2016
Thân hiện Cơ Thánh Đức. 2017 Dậu hiện cảnh Thánh Đức. Từ đây đi vào Cơ Thánh Đức
tỏa sáng, đến năm 2020 nước Đại Việt Trở Thành một Quốc Gia hùng mạnh, kỳ lạ nhất
thế giới. Không có một đất nước nào giống như đất nước Việt Nam.
Như vậy câu sấm: Thân, Dậu. Niên Lai Kiến Thái Bình đã rõ.
Cơ số 5 là Cơ Trung Ương Cơ làm chủ năm châu bốn biển Pháp
Vương Thiên Tử giáng trần chính là nền Văn Hiến Quốc Bảo Cội Nguồn Văn Lang xuất
hiện. Khi Quốc Bảo đã hiệp với Giang Môn, hiệp với Bảo Giang (Nam). Hiệp với Bảo
Hà (Bắc). Có nghĩa Thiên Ý Cha Trời Quốc Bảo Chân Kinh đã lưu chuyển đến những
Linh Địa khắp đất nước Việt Nam, cả ba miền Nam, Trung, Bắc. Thời Việt Nam tỏa
sáng khắp năm châu bốn biển. Giang Môn đều có ở Nam, Trung, Bắc. Từ những con
sông cuối cùng của dòng sông chảy ra biển gọi là Giang Môm. Như vậy Giang Môn
không chỉ riêng cho dòng sông nào mà chỉ toàn bộ những dòng sông cuối chảy ra
biển. Bồi đắp hình thành lên những vùng đất Địa Linh khắp ba miền đất Việt. Khi
Quốc Bảo Văn Hiến lưu chuyển đến những vùng đất Địa Linh nầy, thời những Địa
Linh nầy bừng tỏa sáng.
Sông Mê Công ở vào thời Hùng Vương dựng nước gọi là sông
Hoàng Giang. Khi gần giáp Việt Nam thời hình thành chín con sông chảy ra biển bồi
đắp tạo lên những vùng đất linh thiên. Trong đó vùng đất Thất Sơn,Châu Đốc, An
Giang. Là nơi Vạn Linh Chờ Quốc Bảo đến tỏa sáng. Cũng như các Giang Môn khác
khắp ba miền chờ Quốc Bảo đến tỏa sáng.
Lại Nói Sự, Hoàng Giang, Sinh Thánh ( Cửu Long)
Sông Bảo Giang, Thiên Định Ai Hay ( Tiền Giang, Hậu Giang)
Bảo Sơn ( Thất Sơn )
Thiên Tử Xuất ( Quốc Bảo Văn Hiến Xuất Hiện)
Bất Chiến Tự Nhiên Thành ( không cần đánh cũng thắng)
Bấy Giờ Khai Mở Cơ Trời
Thần Châu ( Văn Hóa Cội Nguồn Quốc Bảo)
Thu Cả Nhân Loài Bình Yên (Quốc Bảo gồm thâu Nhân Loại)
Phúc Trời Đã Định Tây Phong
Là Nơi Tỏa Sáng, Hiển Linh Cội Nguồn( Địa Linh Chính Cơ
Thánh Đức, Miền Tây Nam Việt Nam )
* * *
Bảo Sơn Thiên Tử Xuất. Bất Chiến Tự Nhiên Thành
Có Nghĩa là : Khi nào vùng đất Linh Thiên Thất Sơn Năm Non,
Bảy Núi. Xuất hiện Văn Hiến Quốc Bảo. Cũng là đến lúc Cơ Bất Chiến Tự Nhiên
Thành xuất hiện.
Lại Nói về ở vào giai đoạn Cơ Nhị Ngũ Dư Bình 10 năm cuối của
Cơ số 9 Đồng Khô, Hồ Cạn. Thời Chúa Tể Ma Vương xuất hiện cô lập tiêu diệt Đại
Quỉ. Làm cho cơ Đại Quỉ phần lớn tan tành giải thể đi vào Cơ vận mới. Người ấy
chính là TT Barack - Obama, Ma Vương, Tiếp theo là chúa tể Ma Vương xuất hiện,
TT Trump đi vào Cơ Phá Điền thế giới. Làm đảo lộn thế giới.
Tiêu diệt đại Quỉ. Tam Vô Cọng Sản độc tài thế giới, cũng là
người chận đứng mộng bành trướng Bắc Kinh nuốt trọn biển đảo Việt Nam.
Thời cũng là lúc Việt Nam xuất hiện nền Văn Hiến Quốc Bảo
Thánh Chúa Hoàng Thiên Ra Đời. Hàng phục Ma Vương. Có nghĩa là hàng phục chủ
nghĩa Tư Bản.
Như vậy câu sấm : Ma Vương Sát Đại Quỉ. Hoàng Thiên Tru Ma
Vương đã rõ.
Câu Sấm : Kiên Khôn Phú Tải Vô Lường
Có nghĩa là:
Cơ Vận Kiền Khôn chuyển hóa đa dạng không lường không thể
nào đón hiểu nỗi.
Câu Sấm: Đào Viên có nghĩa quần hội hay quần hùng cũng thế.
Đỉnh Phát có nghĩa là tiến hành. Quần có nghĩa là phân tranh. Dương có nghĩa là
thái bình dương. Tranh Hùng . Ý nói trong nước tạo ra Tam Thế phân tranh, thời
ngoài biển cả thái bình dương biển đông đi vào tranh chấp
Như vậy câu sấm: Đào Viên, Đỉnh Phát, Quần Dương Tranh Hùng
đã rõ.
Câu sấm : Cơ Nhị Ngũ, Thư Hùng Vị Quyết. Có nghĩa 10 năm thời
cuối Nhà Hồ. Thời trong Nội Bộ Tam Vô Cọng Sản tranh chấp dần dần tách phân ra
làm hai thế lực. Thế Lực Chu Du Đổi Mới. Thế Lực Tam Vô Bảo Thủ Cọng Sản. đi
vào Cơ Thư Hùng Vị Quyết định đoạt vận mệnh nước nhà. Cùng lúc ấy thế lực Lưu
Vong. Cạnh tranh dương nội Thư hùng thắng bại.
Như vậy câu sấm: Cơ Nhị Ngũ, Thư Hùng, Vị Quyết đã rõ.
Cơ Sấm: Đảo có nghĩa là biển đảo. Hoành Sơn là nói về Hoàng
Sa, Trường Sa. Đi đến cảnh Tam Liệt Quyết Liệt Trung Quốc, Hoa Kỳ, Việt Nam.
Ngũ Phân là liên quan đến năm nước. Trung Quốc. Việt Nam. Philippines . Brunei.
Malaysia. Cũng nằm trong cơ Nhị Ngũ 10 năm tranh chấp phân tranh.
Như vậy Cơ Sấm Câu : Đảo, Hoành Sơn, Tam Liệt, Ngũ Phân đã
rõ.
Bảo Sơn, Thiên Tử Xuất
( nơi núi báu, Quốc Bảo xuất hiện)
Bất Chiến, Tự Nhiên Thành
( Quốc Bảo xuất hiện đến đâu thời nhân loại bị hàng phục đến
đó)
Nhị Ngũ Dư Bình
( Ẩn là 3 tam thế phân tranh. Hiển là 10 những năm cuối của
thời Tam Vô Cọng Sản.
Ma Vương Sát Đại Quỉ
( Tư Bản, Có Ma Vương)
Hoàng Thiên, Tru Ma Vương
( Thiên Ý Văn Hiến Quốc Bao, hàng phục Tư Bản)
Kiền Khôn, Phú Tải, Vô Lường
Đào Viên, Đỉnh Phát, Quần Dương, Tranh Hùng
Cơ Nhị Ngũ, Thư Hùng, Vị Quyết
Đảo Hoành Sơn, Tam Liệt, Ngũ Phân
Tất cả những câu trên đều đã giải rõ.
* * *
Hết phần 7 mời các Bạn xem tiếp phần 8 về tài tiên tri Cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm, đi vào huyền thoại ở đời. Năm trăm năm làm chấn động lòng
người.
---------------------------------------
HUYỀN CƠ SẤM GIẢI
TAM THẾ PHÂN TRANH
PHẦN 8
Tiếp theo
Để hiểu rõ về cuộc thế đầu và giữa thế kỉ 20 với những câu sấm
tiên tri chính xác.
Ta Hồ, Vô Phụ, Vô Quân;
Các học trò nghe thầy ngâm câu sấm Ta Hồ, Vô Phụ, Vô Quân ,
lấy làm khó hiểu liền hỏi ý nghĩa câu sấm nầy là thế nào ? Cụ Trạng nói .
Ta : có nghĩa là xưng danh. Hồ : có nghĩa Ta là Hồ. Vô có
nghĩa là không Phụ có nghĩa là Cha, Vô Phụ có nghĩa là không Cha. Vô là không
Quân là Vua. Vô Quân có nghĩa là không Vua. Các học trò nghe cụ Trạng giải như
thế thời càng kinh ngạc. Ở đời người không làm Vua, không tôn thờ Vua thời thiếu
gì, nhưng không có cha thời lấy đâu có ra mình khó hiểu quá. Thưa Thầy : Thầy
có thể giải thích cho học trò biết được không.
Cụ Trạng suy nghĩ một hồi lâu, rồi hỏi các trò có biết câu
chuyện Cà Cưởng nuôi Tu Hú không ? Thưa Thầy Học trò hiểu rất rõ câu chuyện nầy,
Cà Cưởng nuôi Tu Hú từ trong trứng nước, chính Cà Cưởng không biết mình đang
nuôi con của người khác. Lớn lên đủ lông đủ cánh Tu Hú không nhận Cà Cưởng là
Cha. Cụ Trang nói đúng thế Tu Hú lớn lên đủ lông đủ cánh liền tìm về Nguồn Cội
của mình. Chối bỏ Họ Cà Cưởng, lấy Họ Tu Hú. Các học trò như đã hiểu ra ý nghĩa
Ta Hồ Vô Phụ thì ra ý câu sấm là thế. Vô Quân là không tôn thờ Vua Chúa , mà
tôn thờ Chủ Nghĩa Vô Thần. Chủ Nghĩa của sự cao ngạo không ai hơn được Ta.
Như vậy câu sấm: Ta, Hồ, Vô Phụ, Vô Quân đã giải rõ.
Cùng thời điểm Hồ thời có Ngô ra đời tranh bá với Hồ. Chia đất
nước ra làm đôi Bắt, Nam. Nhằm ngày 20- 07- 1945 Hồ làm chủ Bắc. Ngô là chủ Nam
. Hồ chủ thuyết Cọng Sản. Ngô chủ thuyết Thủ Thành.
Với câu: Đào Viên, Tản Lạc, Ngô, Dân, Thủ Thành;
Đào Viên có nghĩa là nơi hội tụ quần hùng. Tản Lạc có nghĩa
là phân ly chia ra làm hai thế lực kẻ theo Bắc theo Hồ người theo Nam theo Ngô.
Hồ thế lực ở Bắc ra sức tấn công;
Ngô thế lực ở Nam tạo ra Hào Lũy ấp chiến lược thủ thành.
Có nghĩa là đàng ngoài Nhà Hồ lấn áp tấn công. Đàng
Trong Nhà Ngô ra sức thủ thành xây dựng bờ rào, hào lũy chiến
lược.
Như vậy từ câu 470 Ma Vương Sát Đại Quỉ đến câu 477 Đào
Viên, Tản Lạc, Ngô, Dân. Thủ Thành đã giải rõ.
Để hiểu rõ thêm về Cơ Sấm. Phùng Khắc Khoan hỏi Bạch Thầy. Sự
luân chuyển huyền Cơ tạo ra vận mệnh hậu thế dân tộc Việt Nam là do đâu vậy ? Cụ
Trạng nói hai chữ Việt Nam có từ thời Hùng Vương dựng nước. Nước Xích Quỷ Phía
Nam sông Trường Giang. Nước Xích Quỷ mở rộng về phía Nam thành nước Văn Lang.
Như vậy Chữ Nam có ý nghĩa rất lớn về Cội Nguồn dựng nước. Dân sống trên đất nước
Văn Lang là dân Bách Việt. Như vậy Dân và Nước ghép lại thành hai Chữ Việt Nam.
Đã có từ thời Hùng Vương dựng nước. Không phải bây giờ mới có. Sự chuyển hóa về
sau trải qua ba giai đoạn đặc biệt. Giai đoạn niên đại Kinh Dương Vương. Giai
đoạn nên đại Hùng Vương, và thời đại hậu con cháu Hùng Vương.
Cụ Trạng ngâm lại những câu sấm đã ứng Cơ;
Kể Từ, Lạc Long Quân, Dựng Nước
Có sự nhầm lẫn ở đây, phải nói là:
Kể Từ Kinh Dương Vương , Dựng Nước.
Sang Hùng Vương, Được 18 đời
Có sự nhầm lẫn ở đây, phải nói là;
Sang Hùng Vương, Được 41 đời
Khi niên đại Hùng Vương kết thúc
Hậu thế con cháu Hùng Vương gìn giữ Tổ Quốc Non Sông
Tiên Hoàng, Ngày Trước, Mở Ngôi
Cờ Lau, Lập Trận, Thay Trời Trị Dân
Mão , Được 12 Dư Xuân
Lê Hoàng, Kế Vị, Xa Gần, Âu Ca.
Trong thời Thánh Đức. Sự Tái Sanh, sự giáng sanh. Của các
Vương Quan thời Hùng Vương. Cũng như thời Đinh Tiên Hoàng, không những ở nước
Việt Nam mà ở cùng khắp thế giới. Cũng như O bama tướng lĩnh thời Đinh Tiên
Hoàng tái sanh phương Tây. Sinh ra tại Hawaii, quê nội Kenya, người có nhân
duyên với đất nước Việt Nam. Những vị tái sanh ra đời vào thời thượng ngươn
Thánh Đức có tới 72 vị toàn thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng lần lượt xuất
hiện trong vòng 30 năm. Kể từ 2001 đến 2030
Thánh Vương Chúa Thánh của 72 vị Minh Quân đó chính là Văn
Hiến Quốc Bảo. Cụ Trạng đọc lên hai câu sấm:
Đời Nầy, Thánh Đế, Vi Vương.
Thu Cả, Đạo Đức, Văn Chương Trong Mình
Nội thân Văn Hiến Quốc Bảo có cả Đạo Đức lẫn văn chương.
Cụ Trạng lại đọc tiếp câu sấm;
Gốc, Sinh Hiền, Điều Đỉnh, Hộ Mai.
Gốc: là nói đến Cội Nguồn, Sinh Hiền : có nghĩa từ Cội Nguồn
sinh ra không biết bao nhiêu là Hiền Tài. Điều Đỉnh: có nghĩa là điều khiển vận
mệnh đất nước. Hộ Mai có nghĩa nói đến chủ nghĩa mùa Xuân. Mùa Xuân là mùa đứng
đầu trong năm, cũng là mùa đẹp nhất trong năm.Mùa hội tụ đoàn kết dân tộc. Chủ
nghĩa mùa xuân ra đời, thời có Chúa Xuân Hoa Mộc Đức xuất hiện. Hoa Mộc Đức
chính là Hoa Mai. Đi vào Quốc Hoa gắng liền với Văn Hiến Quốc Bảo.
Nhiều người lại hỏi Cụ Trang. Với những câu sấm:
Thiên Sinh, Hữu Nhất Anh Hùng
Hữu Sinh, Nhất Đại Anh Hùng
Là nghĩa làm sao? Cụ Trạng trả lời theo Thiên Cơ cho biết
ở vào giai đoạn hội tụ thời Thánh Đức 2016 sang 2017 bắt đầu
về tương lai đất nước Việt Nam đi vào giai đoạn mới. Việt Nam sẽ có biến động đổi
thay lớn. Thế giới cũng vậy. Cũng từ đây xuất hiện nhiều anh hùng hào kiệt.
Trong ba Thế Lực. Lưu Vong, Chu Du, Tam Vô Trung Can Hiếu Nghĩa dám đứng lên
nói thẳng sự thật. Gốp phần làm thay đổi vận mệnh đất nước Việt Nam.
Những nhân vật nầy xuất hiện sau hai Minh Quân Nhà Nguyễn,
Người Ở Bắc - Kẻ ở Nam. Chuyển đổi tình thế cứu vãn đất nước theo chiều hướng đổi
mới. Trong 72 vị hiền nhân lần lượt xuất hiện. Trong đó có Thầy Nhân Thập là
người Hiền Đức vô cùng.
Có Thầy, Nhân Thập, Đi Về
Có Thầy: Ám chỉ cho người thành danh
Nhân : ý nói nhân là người danh người là Thập có nghĩa là Thập
Toàn. Đó là hiển , còn Ẩn : Người nầy mang trong mình có Tượng Gỗ ( Mộc) Thiên Ấn
Vũ Trụ. Ý nói người nầy học rộng Tài, Đức vẹn Toàn. Mang trong người Thiên Ấn
Thập Toàn Vũ Trụ.
Người nầy rời khỏi đất nước một thời gian dài , đi khắp năm
châu. Rồi từ năm châu trở về giúp nước giúp dân ở vào giai đoạn Nhà Nguyễn chuyển
đổi đất nước thành công đi vào ổn định 2018- 2019- 2020 thời mới biết được người
nầy một nhân tài trong 72 hiền tài (Câu sấm có thầy nhân thập đi về) không phải
ám chỉ Hồ Chí Minh. Vì Hồ Chí Minh ở thời mạc vận, mạc pháp, mạc kiếp. Khôn phải
ở trong cơ Nhị Ngũ Dư Bình trong vòng 10 năm giai đoạn cuối Tam Vô. Hồ Chí Minh
Không ở thời thượng ngươn Thánh Đức. Có tài giúp nước giúp non nhất là tài Khoa
Học, tài Đạo Đức. Với cái tài Đạo Đức và tài khoa học ai ai cũng mến mộ ngài. Ủng
hộ ngài.
Người Trong nước Dương Nội bên tả
Người Việt nước ngoài bên Hữu
Đều ủng hộ mến mộ ngài.
Cây, Cỏ, Thành Binh. Ý nói nhiều vô số kể.
Để hiểu rõ thêm dưới dây những câu tiên tri về Ngài Nhân Thập.
Có Thầy, Nhân Thập, Đi Về
Tả, Hữu, Phù Trì, Cây, Cỏ, Là Quân
Dốc Hết Sức, Sửa Sang Vương Nghiệp
Giúp Vạn Dân, Cho Đẹp Lòng Trời
Ra Tay, Điều Đỉnh, Hộ Mai
Bây Giờ, Mới Biết, Là Tài An Dân
Nọ Là, Phải Nhọc Kéo Quân
Thấy Nhân, Ai Cũng Mến Nhân Tìm Về.
* * *
Hết phần 8 mời các Bạn xem tiếp phần 9 về tài tiên tri Cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Không ai là không kính phục cụ.
-------------------------------
HUYỀN CƠ SẤM GIẢI
TAM THẾ PHÂN TRANH
PHẦN 9
Tiếp theo
Phùng Khắc Khoan vì muốn cho học trò Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu
rõ thêm về ý nghĩa Sấm Cơ bằng hỏi rõ thêm. Bạch Thầy :
Bảo Giang, Thiên Tử Xuất
Bất Chiến, Tự Nhiên Thành
Lê Dân, Bảo Bảo Noản
Tứ Hải, Lạc, Âu Ca
Là nghĩa làm sao? Cụ Trạng giải thích rằng:
Bốn Câu nầy không ám chỉ về con người, mà ám chỉ về Quốc Bảo.
Quốc Bảo sẽ tỏa sáng khắp Giang Môn. Nhất là tại Hoàng Giang Bảo Giang, Nam. Bảo
Hà, Hồng Hà, Bắc. Hàn Giang Trung. Không cần đánh Thiên Hạ cũng chuyển theo. Nước
Đại Việt đi vào Cơ Thánh Đức. Tiến lần đến cảnh Thái Bình An Lạc. Dân chúng
sung sướng. Khắp bốn phương Âu Ca. Trong nước ngoài nước reo hò ca ngợi. Phùng Khắc Khoan lại hỏi. Bạch Thầy. Với câu
456- Thiên Tử, Thần Thức Thụy
457- Thụy Trình, Ngũ Sắc Quang
458- Kim Kê , Khai Lựu Điệp
459- Hoàng Cái, Xuất Quí Phương
460- Nhân Nghĩa Thùy, Vô Địch
461-Đạo Đức Thực Dữ Đương
462-Tộ Truyền Nhị Thập Ngũ
463-Vận Khải Ngũ Viên Tường
Cụ Trạng giải thích :
456- Thiên Tử: Có nghĩa là Con Trời chỉ cho Quốc Tổ, mà Quốc
Tổ lại nói ra Quốc Bảo trở thành Pháp Vương của thời đại Thánh Đức chính là Văn
Hiến Quốc BảoThần Thức Thụy : Nghĩa là Văn Hiến Quốc Bảo chính là Duy Thức Văn
Hóa Tâm Linh Thần Thức Hệ, Cội Nguồn Văn Hóa Cha Ông. Như vậy câu 456 Thiên Tử
Thần Thức Hệ đã được giải rõ.
457- Thụy: Có nghĩa là nhìn, nhận Trình : Trình có nghĩa là
trình bày nói rõ về Cội Nguồn Cha Ông. Ngũ Sắc Quang: Nghĩa là Quốc Bảo tỏa
sáng năm màu. Ngũ Hành đồng cùng chung Cội Nguồn.
Toàn câu: Thụy, Trình, Ngũ Sắc Quang. Ý nói nhìn nhận ra
nhau , là nhờ vào giải trình Văn Hiến Quốc Bảo, làm sáng tỏ soi sáng chỉ đường
mới nhận ra năm màu da anh em cùng chung một Cội một Nguồn. Phật, Thánh, Tiên,
Thần, Chúa cùng chung Ý Thức hệ một gốc. Tất cả nhân loại cùng chung Cha Trời Mẹ
Trời. Dân tộc Việt Nam chung nhau Quốc Tổ. Nói chung Văn Hiến Quốc soi sáng thấy
rõ tất cả. Như vậy câu sấm 457 Thụy, Trình, Ngũ, Sắc Quang đã được giải rõ.
458- Kim Kê, Khai Lựu Điệp : Có Nghĩa Văn Hiến Quốc Bảo Liệt
Kê khai lập thành Văn làm rõ rất cả mọi vấn đề nghi vấn. Chẳng hạng như thời dựng
nước Văn Lang, Bách Việt Văn Lang. Nguồn Cội nhân loại con người. cũng như xuất
sứ năm màu da anh em, thông điệp cho tất cả đều biết vân vân v.. Như vậy câu sấm
458 Kim Kê, Khai, Lựu Điệp. đã được giải rõ.
459- Hoàng Cái, là nơi Vua Ngự . Xuất Quý Phương : Có nghĩa
là nơi chốn Phương Vua Ở. Quốc Bảo ngự ở Phương Nam, Đông Nam nước Việt. Như vậy
câu sấm 459 Hoàng Cái, Xuất Quý Phương, đã được giải rõ.
460- Nhân Nghĩa: Ý nói Văn Hiến Quốc Bảo là Văn Hiến Đạo
Pháp Dân Tộc, Văn Hiến Nhân Nghĩa. Văn Hiến của sự Ăn Quả Nhớ Người Trồng Cây,
Uống Nước Nhớ Nguồn.
Thùy : là ở ranh giới tối cao, Vô Địch: Ý nói Văn Hiến Quốc
Bảo không ai địch nổi. Vô Địch Thiên Hạ.
Ý nghĩa toàn câu: Nhân, Nghĩa, Thùy, Vô Địch là như thế. Câu
sấm 460 đã được giải rõ.
Câu 461: Đạo, Đức, Thực Dữ Đương;
Đạo: Có nghĩa là con đường. Đức: Có nghĩa bao hàm sự rộng lớn,
gắng liền với chữ Độ. Thực : Có nghĩa là Hiện Thực không xa rời thực tế. Dữ :
Có nghĩa ai nhìn thấy hay đọc qua Văn Hiến Quốc Bảo đều khiếp sợ. Đương: Có
nghĩa là đối đầu, Đương Đầu, Cáng đáng mọi vấn đề, kim chỉ Nam cho mọi công việc.
Không ai có thể làm nổi việc nầy ngoài Văn Hiến Quốc Bảo. Như vậy câu sấm 461 Đạo
Đức, Thực, Dữ, Đương đã được giải rõ.
Câu 462 : Tộ Truyền, Thập Nhị Ngũ.
Tộ Truyền : Ý nói ban Truyền. Thật Nhị Ngũ: Có nghĩa trong
Quốc Bảo Giới Đức. Có 25 Đại Giới làm thầy cho nhân loại, chỉ đường cho nhân
thoát khỏi bể khổ Ta Bà.
Cũng như đối nhân xử thế, không đi ngược lại Đạo Đức làm người.
Đi ngược lại Đạo Đức Xã Hội. Đạo Đức được xem trọng đưa lên hàng đầu . Truyền
ra khắp thế giới năm châu. Như vậy câu sấm 462 Tộ Truyền, Thập Nhị Ngũ, đã được
giải rõ.
Câu 463: Vận Khải Ngũ Viên Tường;
Vận : có nghĩa là chuyển, thời Vận. Khí Số đã chuyển thành tốt
đẹp. Khải: Có nghĩa ca, hát, mừng vui. Viên: có nghĩa là tròn đầy . Tường : Có
nghĩa là Cát Tường viên mãn hạnh phúc sung sướng . Tròn câu: Vận, Khải, Ngũ,
Viên, Tường : Ý nói thời vận nước nhà khí số vô cùng tốt đẹp, ca hát mừng vui.
Cát Tường hạnh phúc.
Như vậy từ câu 456 đến câu 463 đã được giải rõ.
Những học trò theo Cụ Trạng hỏi ?
Câu: Cửu Cửu, Càn, Khôn, Dĩ Định thời chúng con hiểu rồi.
Còn những câu;
411- Thanh Minh, Thời Tiết Hoa Tàn.
412- Trực Đáo , Dương Đầu, Mã Vĩ
413- Hồ Binh, Bát Vạn, nhập Trường An
Là nghĩa làm sao? Xin thầy giải cho học trò hiểu. Cụ Trạng
giải thích.
411- Thanh Minh : có nghĩa là ở giữa chừng Xuân. Thời Tiết:
Ý nói hơi lạnh mùa đông tới đây là hết không còn. Hoa Tàn : Ý nói những Hoa Nở ở
mùa đông đều tàn rụi hết.
Tròn câu 411: Ý nói giữa chừng xuân, hơi lạnh mùa đông chấm
dứt không còn, những hoa nở theo mùa đông cũng héo tàn rụng hết. Như vậy câu
411 Thanh Minh, Thời Tiết, Hoa Tàn, đã được giải rõ.
Câu 412: Trực Đáo, Dương Đầu, Mã Vĩ.
Trực Đáo: Có nghĩa từ đâu sanh ra thời trở về nơi đó. Kể từ
Dương Đầu, Mã Vĩ : Có nghĩa trong 10 năm biến động theo Cơ Nhị Ngũ Dư Bình vào
năm Giáp Ngọ 2014 mã vĩ. 2015. Như vậy câu sấm 412 Trực Đáo, Dương Đầu, Mã Vĩ
đã được giải rõ.
Tiếp theo câu 413: Hồ Binh, Bát Vạn, nhập Trường An.
Hồ Binh: ám chỉ Quân Binh mang tên Cụ Hồ. Bát Vạn : Ý nói 80
nghìn Quân Binh. Nhập Trường An: Có nghĩa tan biến vào quá khứ. Quân Đội không
còn mang tên Bác Hồ nữa. Mà là đổi mới mang tên khác. Chẳng hạng như Quân Đội
Nhân Dân, Quân Đội Cọng Hòa, không còn Quân Đội Bác Hồ nữa. sau nầy trở thành Đảng
Cọng Hòa 2018- 2019, Nhưng đó chỉ là Sấm còn đúng hay không thời ai mà biết được.
Ở đây chỉ gải sấm mà thôi. Như vậy câu sấm 413 Hồ Binh, Bát Vạn, Nhập Trường
An, đã được giải rõ.
Nguồn gốc xuất xứ Trường An rõ nhất là vào thời Ân - Chu, và
kéo dài qua các thời kỳ tiếp theo sau thời Ân - Chu hơn mấy nghìn năm đã đi vào
quá khứ. Có nghĩa danh quân đội Cụ Hồ do Tàu Cọng áp đặc gắng liền với Cụ Hồ. Lần
Lần biến tan nhập về Trường An đất Bắc, không còn trên đất nước Việt Nam. Tên
thời mất nhưng người vẫn còn, mang tên mới thay thế cho tên cũ.
Như vậy từ câu 410 đến câu 413 đã được giải rõ.
Cửu Cửu, Kiền Khôn, Dĩ Định
Thanh Minh, Thời, Tiết, Hoa Tàn
Trực Đáo, Dương Đầu, Mã Vĩ
Hồ Binh, Bát Vạn, Nhập Trường An
* * *
Hết phần 9 mời các Bạn xem tiếp phần 10 với tài tiên tri Cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm , tiên đoán về vận mệnh tương lai của đất nước Việt Nam.
-------------------------------------
HUYỀN CƠ SẤM GIẢI
TAM THẾ PHÂN TRANH
PHẦN 10
Tiếp theo
Để hiểu rõ thêm về vận mệnh dân tộc Việt Nam cũng như đất nước
Việt Nam trước hiểm họa nội chiến, cũng như rơi vào tay xâm lược phương Bắc.
Hay Việt Nam bình yên tồn tại muôn năm.
Cần phải hiểu thêm về vấn đề Cơ Sấm. Tiên đoán về vận mệnh
con người để hiệp theo Bát Quái gọi là Cung. Còn đoán về địa cuộc hiệp theo Bát
Quái gọi là Phương. Phương và Cung cũng nằm trong Bát Quái. Nhưng áp dụng cho vận
mệnh con người gọi là Cung. Áp dụng cho địa cuộc gọi là Phương.
Phùng Khắc Khoan, cũng như các môn sinh đệ tử. Muốn hiểu rõ
mười câu cuối của Bạch Vân Thi Tập Sấm Ký. Bằng thưa rằng: Thầy giải rõ mười
câu cuối môn sinh chúng con lấy làm khó hiểu. Cụ Trạng liền giải rằng:
Câu:
478 Đoài Phương, Phước Địa, Giáng Linh .
Đoài Phương : Có nghĩa là Cung Phương Đài tiên thiên bát quá
nằm theo vị trí Đông Nam. Đông Nam Á có mười một nước, nhưng không nước nào có
chữ Nam. Chỉ riêng Việt Nam mới có chữ Nam. Lại là địa cuộc vô cùng quan trọng
hình chữ S Địa Long vũ trụ. Một bên là biển cả Âm một bên là đất liền liên
thông qua nhiều nước Dương. Âm – Dương tương hợp. Linh Địa hóa sinh. Tạo ra những
kỳ tích lạ đời, không ai có thể ngờ trước được.
Phước Địa : có nghĩa là Địa Long Thánh Địa Việt Nam trên thế
giới không có Địa Cuộc nào bằng. Địa cuộc vô cùng quan trọng cho cuộc giao
thương thế giới. Địa cuộc mang nhiều thứ phù sa bồi đắp. Bồi đắp Văn Hóa, Chính
Trị, Đạo Đức từ khắp năm châu cả tốt lẫn xấu. kể cả Bùn Đất tạo lên tươi tốt
cho hoa màu. Một địa cuộc như vậy không gọi Phước Địa là gì ?
Giáng Linh: Có nghĩa rất nhiều Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa
giáng trần xuống Địa Linh Thánh Địa Việt Nam. Cũng như 72 vị Minh Quân tái kiếp
làm người trở lại, trong thời thượng ngươn Thánh Đức. Trong đó có Chí Tôn Thiên
Đế. Hay còn gọi là Thiên Tử Giáng Trần. Chí Tôn Anh Linh Quốc Tổ Vua Hùng. Như
vậy câu sấm 478 Đài Phương, Phước Địa, Giáng Linh đã giải rõ.
Câu:
479 Cửu, Trùng, Thụy Ứng, Long Thành, Ngũ Vân.
Cửu : Có nghĩa là 9
Trùng: Có nghĩa là trùng lặp giống nhau.
Thụy : Có nghĩa lời châu ngọc.
Ứng : Có nghĩa xuất hiện ứng ra, sanh ra.
Như vậy Cửu Trùng, Thụy Ứng là nói đến sự ra đời lời dạy tối
cao những lời Châu Ngọc Cửu Huyền Cha Trời lần thứ hai. Mà trước đây Quốc Tổ đã
truyền khai lập lên nước Văn Lang cũng như nền Quốc Đạo Văn Lang. Được tái hiện
trở lại. Trở thành Quốc Bảo quý hiếm nhất thời nay.
Long : Có nghĩa là Rồng.
Thành : Có nghĩa là Viên Mãn.
Như Vậy Long Thành là nói đến dòng giống Lạc Long trổ hoa kết
quả viên mãn.
Ngũ : Có nghĩa là 5.
Vân : Có nghĩa là Mây, địa cuộc Năm Châu hình dáng như 5 đám
mây. Đều quy tụ về Thánh Địa Việt Nam, tùng phục lời Châu Ngọc trong Văn Hiến
Quốc Bảo quý hiến nhất nhân loại. Như vậy Câu Sấm 479 Cửu, Trùng, Thị, Ứng,
Long Thành, Ngũ Vân đã được giải rõ.
Câu:
480 Phá, Điền, Thiên Tử, Giáng Trần
Phá : Có nghĩa là Khai, khai mở theo chiều thuận sanh. Khai
mở theo chiều nghịch là, triệt phá, tiêu diệt. Ý nói vừa khai mở Thánh Đức, vừa
tiêu diệt Gian Ác.
Điền : Có nghĩa là điền thổ vườn, ruộng ( Vật Chất)
Điền : Có nghĩa là Tâm Địa, Tâm Điền. Đan Điền. Danh Điền. (
Tinh Thần)
Chữ Điền đã khai phá thời lộ rõ Chữ Vương
Nhưng vậy Phá Điền thời nay, hay thời xưa đều lộ chữ Vương cả.
Phá , Điền ở thời khai mở Thánh Đức vô cùng quan trọng. Khai Mở Tâm Điền. Đan
Điền, Danh Điền. Đi vào thời đại mới. Làm sáng tỏ Cội Nguồn Nhân Loại con người.
Khai mở danh điền những nơi Huyệt Linh quan trọng của đất nước Việt Nam.
Như vậy câu Phá Điền thời nay. Khác với câu Phá Điền thời
khai Cơ lập nghiệp thời dựng nước Văn Lang. Phá Điền Thời nay trong Cơ Nhị Ngũ
10 năm biến động đi vào Tam Thế phân tranh. Tiến tới lập đời Thánh Đức Thượng
Ngươn, không phải nói đến khai khẩn, khai mở đất đai mở rộng bờ cõi. Như thời dựng
nước. Mà là Khai Mở làm rõ Cội Nguồn Đại Tâm Địa Vũ Trụ. cũng như làm rõ Tâm Địa
Tâm Điền con người. Khai mở Đan Điền Tiên Thiên Chân Khí. Khai Mở những Danh Địa
Danh Điền quan trọng. Tiến tới Làm nhà Rồng Tiên. Vì Sự khai mở nầy vô cùng
khác lạ dẫn đến xuất hiện Văn Hiến Quốc Bảo, Pháp Bảo cũng thế.
Thiên Tử : chỉ cho Quốc Tổ con trời, cũng chính là Văn Hiến
Quốc Bảo. Văn Hiến Quốc Bảo Thiên Ý của Trời.
Giáng Trần : Có nghĩa là đã xuất hiện chốn nhân gian. Qua
hình thể Quốc Bảo, Pháp Bảo cũng thế.
Như vậy câu sấm 480: Phá, Điền, Thiên Tử, Giáng Trần đã giải
rõ.
Câu:
481 Dũng Sĩ, Nhược, Hãi, Mưu, Như Lâm.
Dũng Sĩ : có nghĩa là nói đến anh hùng nhân tài
Nhược: nhược theo cơ sấm không phải là nhu nhược. Mà là nhẫn
nhục khôn khéo mềm dẽo, đối Nội đối Ngoại. Đã là Dũng Sĩ thời không thể yếu hèn
nhu nhược. Mà là khôn khéo mềm dẽo. Đối Nội đối Ngoại. Ý nói một dân tộc có hơn
bốn nghìn năm Văn Hiến. Tưởng như là nhu nhược yếu hèn. Nhưng không ngờ tìm ẩn
sức mạnh nội lực vô cùng. Khi quật khởi thời dù cho to lớn đến đâu cũng bị đánh
bại quật ngã.
Hải : Có nghĩa là biển rộng lớn mênh mông.
Mưu : Có nghĩa tài trí vô cùng
Hải Mưu ý nói sự tài trí của dân tộc Rồng Tiên như biển cả rộng
lớn vô biên.
Thần : Là người Tài. Nhân Tài. Hiền Sĩ,
Như : Là không thay đổi trước sau như một.
Lâm: là rừng.
Thần, Như, Lâm ý nói nhân tài con cháu Tiên Rồng trên đất nước
Việt Nam nhiều như cây , lá trong rừng. Không kể xiết.Từ xưa đến nay vẫn thế.
Như vậy câu sấm 481 - Dũng Sĩ, Nhược, Hải, Mưu, Thần, Như
Lâm, đã giải rõ.
Câu:
482 Trần Công, Nãi Thị, Phúc Lâm.
Trần Công: Có nghĩa người họ Trần có địa vị lớn. Theo Huyền
Cơ sau thời Hùng Vương đến thời hậu con cháu nước Nam loạn lạc, chia làm 12 sứ
quân không ai tùng phục ai, Trong 12 sứ quân. Sứ Quân Trần Lãm hùng mạnh. Trần
Lãm là ( Kỳ Bố Hải Khẩu ) Ông không những là nhà tiên tri giỏi, nhờ thế mà Lãnh
Đạo tài tình. Trấn Quân ở vùng cửa biển. Ông xuyên về bên ngoại hơn bên nội.
Cha Ông bên nội vốn người gốc Hán. Nhưng Ông lại nghiêng về bên ngoại Mẹ người
Nam Việt. Cha Trần Đức, Mẹ Lâm Thị. Dân chúng thường gọi Trần Lãm là Trần Minh
Công. Được coi như là Sứ Quân anh minh. Một hôm ông gặp được Đinh Bộ Lĩnh. Với
tài xem tướng số. Lý Số. Dịch Học Chu Dịch, Ông nhân ra Đinh Bộ Lĩnh là người
có chân mệnh làm Đế Vương. Nên nhận Đinh Bộ Lĩnh làm con nuôi. Và gả cho con
gái, Nhờ những lời tiên tri chỉ điểm của Trần Minh Công. Nên Đinh Bộ Lĩnh gồm
thâu hết 12 đạo sứ quân về một mối , lập lên nước Đại Cồ Việt lấy nên hiệu là
Đinh Tiên Hoàng.
Trần Minh Công chết đầu thai tái sanh ra dòng họ Nguyễn. Thuở
nhỏ Nguyễn Văn Đạt, sau trở thành Nguyển Bỉnh Khiêm. Nhờ theo thầy cao đức cả
truyền cho Dịch Học, Chu Dịch. Thái Ất Thần Kinh. Học đâu nhớ đó học một biết
mười. Vì tiền kiếp trước của Ông là Trần Minh Công Trần Lãm tinh thông dịch học
chu dịch rồi. Ông nhờ Mẹ truyền cho tinh thông Lý Số, Tướng Số. Trở thành nhân
tài kiệt xuất trong thời Nhà Mạc đỗ trạng làm quan ở vào giai đoạn thế kỷ 16.
Trần Minh Công tái kiếp đầu thai trở lại vào dòng họ nguyễn. Vì biết Đinh Tiên
Hoàng sau khi qua đời đầu thai tái kiếp trở thành Ngưu Tinh thiên tử xuống trần
trở thành Vua Chiếu. Ông sẽ ra phò. Nhưng Ngưu Tinh khí số chưa được làm Vua
Nam Chiếu. Nên đã lậu thiên cơ người Tàu biết được. Luyện gươm linh lừa phỉnh mẹ
Ngưu Tinh cắm xuống linh huyệt chơn mạng Ngưu Tinh. Ngưu Tinh lúc ấy là vị tướng
tài giỏi đang cầm quân chống giặc phương Bắc. Đang khỏe mạnh phi thường bổng
lên cơn sốt nặng mà qua đời. Nên không trở thành Vua Nam Chiếu được. Nguyễn Bỉnh
Khiêm ra đời hụt hẩn vì Ngư Tinh không còn trên đời để mà phò. Tuy học cao tài
rộng nhưng Ông không có nhân duyên phò nhà Mạc nên thường thi đâu trượt đó. Vì
quá tài giỏi cuối cùng Ông cũng thi đỗ làm quan. Nhưng vì không có nhân duyên
phò triều Mạc, nên Ông trở thành Trạng Ngông quậy phá lung tung ngạo nạm xem
thường tất cả. Vì cho rằng đám quan thời nhà Mạc chỉ là một lũ vô dụng bất tài.
Và Ông biết rõ nếu không từ quan sớm thời cũng bị lũ triều thần xu nịnh nầy làm
hại. Nên Ông từ quan về quê Ông dựng Am Bạch Vân tu hành Ngộ Đạo trở thành nhà
tiên tri lỗi lạc hơn nghìn năm không ai sánh kịp để những lời tri về hậu thế. Dẫn
đường cho những ai biết khám phá những lời tiên Nguyển Bỉnh Khiêm để lại. Ông
cũng đón biết Ngưu Tinh sẽ tái kiếp đầu thai xuất hiện trong đời Thánh Đức. Và
Ông cũng đầu thai tái kiếp trở lại theo Ngưu Tinh. Nên để lại lời tiên tri Bao
giờ Tiên Lãng xẽ đôi, sông Hàn nối lại thời tôi lại về.
Nguyển Bỉnh Khiêm qua đời tái kiếp đầu thai trở lại Họ Trần.
Vì có tính hướng ngoại của nhiều tiền kiếp. Nên Ông Sanh ra ở Việt Nam , Lưu
Vong Hải Ngoại trở thành nhà tiên tri vũ trụ Trần Dần. Nổi tiếng ba đời TT
George w Bush. Cũng như TT Barack - O Bama. Ông chỉ là một trong 72 Thánh Hiền
mà thôi. Ở vào thời đại Thánh Đức có tới 72 vị minh quân kỳ lạ như vậy. Vì thời
Thánh Đức chính là thời Đa Nguyên Nhân Quyền, Dân Chủ. Con người không phải là
tối cao. Mà Tối Cao chính là Nền Văn Hiến. Hiến Pháp. Luật Pháp, Đạo Pháp, mới
là tối cao. 72 vị Minh Quân chỉ ra phò Văn Hiến Quốc Bảo giữ vững cáng cân Công
Lý, Công Bằng Bình Đẳng. Thời đại Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ, là thời đại
sinh ra nhiều Vua trong một nước. Như Vua Chính Trị. Vua Bóng Đá, Vua Kinh Tế,
Vua Kinh doanh. Thậm chí . Bài Bạc còn có Vua. Nói chung ngành nào cũng có Vua.
Như vậy Vua ở đây ở đây không phải là Chí Tôn Thiên Tử giáng trần. Mà là Vua của
các đầu ngành ra phò Văn Hiến Quốc Bảo. Hiến Pháp, Luật Pháp. Đạo Pháp Nền Văn
Hiến Minh Chính không già, không trẻ. Công bằng văn minh trường tồn dân tộc.
Nãi : Có nghĩa là Tuy Nhiều Nhánh Phái nhưng cùng chung một
cội dính chùm mà ra. Cùng nhau gánh vác, cùng chung chí hướng. Mười Trái như một
trong một nải chuối y chang không khác mấy.
Thị : Có nghĩa là Mắt . Trông, Nhìn, Nhận thấy xa.
Cũng như ám chỉ nhiều sự kiện to lớn ra đời. Chỉ Thị đi vào
cuộc sống. Thị ám chỉ sự Phồn Thịnh, Tấp Nập đỉnh cao
Như vậy Nải, Thị là ảm chỉ về sau nhân loại có tầm nhìn rất
cao. Và nhiều sự kiện to lớn ra đời. Chung nhau gánh vác, chung cùng chí hướng.
Nhất là tiến đến đỉnh cao Vật Chất đi vào cảnh giàu sang.
Phúc : Có nghĩa là những điềm lành.
Tâm : Có nghĩa là Ngay, là Chính, Là Trung, Là Dung, Là Hòa.
Phúc, Tâm là ám chỉ Việt Nam là trung Tâm Thánh Địa, Địa Cầu
sẽ có những điềm phúc lành xuất hiện, dân tộc Việt Nam trở nên Minh Chính, Hiếu
Trung, Độ Lượng, Dung Hòa. Đạo Đức đứng đầu thế giới.
Như vậy câu sấm 482 Trần Công, Nải, Thị, Phúc Tâm đã được giải
rõ.
Câu:
483 Giang Hồ, Tử Sĩ, Đào, Tìm, Xuất Du.
Giang Hồ: Có nghĩa là nói đến những người phiêu bạc khắp
nơi. Không nói cho riêng một cá nhân nào. Nhiều thành phần và đa dạng những người
phiêu bạc khắp nơi.
Tử Sĩ : Có nghĩa là nói đến những người có Tài có Đức không
ám chỉ riêng cho bất cứ một ai.
Đào: Có nghĩa là Trốn. Là xuất du. Không ám chỉ cho một cá
nhân nào,
Tìm: Có nghĩa là bôn ba, lặng lội, không ám chỉ riêng ai
Xuất Du : Có nghĩa là rời khỏi quê hương, tìm cho mình một
hướng đi tương lai.
Như vậy câu sấm 483 là nói. Nhân tài đất Việt vì biến động
chiến tranh, vì mưu cầu hạnh phúc. Vì tương lai đất nước. Mà phải rời khỏi quê
hương. Tìm tòi học hỏi. Cũng như trốn tránh thể chế tàn bạo. Có người lập nghiệp
nơi đất khác quê người. Trở thành nhân tài nổi danh thế giới.
Câu:
484 Tướng Thần, Hệ Xuất, Y, Chu
Tướng Thần: Ý nói Tướng Nhà Trời
Hệ Xuất : Ý nói xuất hiện.
Y : Có nghĩa là Y chang. Giống Hệt. Y Nguyên thời dựng nước
khi xưa. Ý nói Sự khai cơ Thánh Đức trong thời đại ngày nay. Không khác gì thời
Quốc Tổ Vua Hùng dựng nước Bất Chiến Tự Nhiên thành không có chiến tranh đổ máu
giữa người với người. Chỉ đẩy lùi cái ác phục hồi cái thiện mà thôi.
Chu: Có nghĩa là chúm lại , bung ra Chu Chuyển, Chu Tất, Chu
Đáo, Chu Toàn cho một sự kiện lớn xuất hiện
Như vậy Câu 484 ý nói Tướng Trời,Xuất Hiện, ra phò Minh Chúa
Thiên Tử Giáng Trần. Văn Hiến Quốc Bảo. Tất cả đều vây xung quanh Văn Hiến Quốc
Bảo. Tôn thờ Quốc Tổ rồi Bung Ra, Chu Đáo, Chu Toàn, cho một sự kiện lớn xuất
hiện.
Như vậy câu 484 Tướng Thần, Hệ Xuất, Y, Chu đã được giải rõ.
Câu:
485 Thứ Kỵ , Phục Kiến, Đường, Ngu, Thi Hành.
Thứ : Có nghĩa là thứ bậc, Tổ Tiên, Cha Trời. Mẹ Trời, Địa Mẫu
, ba ngôi tối cao vũ trụ. Quốc Tổ là ngôi đứng đầu dân tộc vân vân. và ..
Kỵ : Có nghĩa , là những lời nói mang tính cách cấm kỵ không
được vô lễ, hổn xược vi phạm. Cũng như sự khắp tinh của nó. Ví dụ: Bóng đêm kỵ ánh
sáng. Hàng con cháu cấm kỵ ngang hàng với Tổ Tiên. Cũng như Lửa kị nước.
Thứ Kỵ hiệp chung hai chữ Thứ Kỵ lại, thành nghĩa như sau.
Là lời dạy Châu Báu của Tổ Tiên , Cha Trời, Mẹ Trời, Trở thành Quốc Bảo Cấm Kỵ
hổn xược bài bác. Khắc Kỵ Gian Ác , làm cho cái ác tiêu tan, cái bậy không còn.
Âm u tan biến.
Phục : Có nghĩa là tùng phục, ra phò.
Kiến : Có nghĩa là Thấy Biết, cũng như diện kiến, ra mặt
Phục Kiến Ý nói sự tùng phục Quốc Bảo, Quốc Tổ. Thấy rõ hiểu
rõ Nền Văn Hiến tỏa sáng uy linh không ai là không tùng phục, ra phò.
Đường, Ngu: Ý nói sự hưng thịnh thời Thánh Đức còn hơn thời
Vua Đường, Vua Nghiêu, Vua Thuấn.
Thi Hành: Ý nói lập công trong thời Thánh Đức, lập công truyền
bá Văn Hóa Cội Thi Hành Thiên Ý Cha Trời, lời dạy Quốc Tổ. ra phò. Lập công lớn
về trời.
Như vậy câu 485: Thứ, Kỵ, Phục, Kiến, Đường, Ngu, Thi Hành
đã giải rõ.
Câu:
486
Hiệu : Có nghĩa là danh hiệu.
Xưng: có nghĩa là nói rõ danh tánh. Chí Tôn Thiên Tử của đời
Thánh Đức là ai ? Con người ? Hay nền Văn Hiến Quốc Bảo ?
Trả lời: Đời Thánh Đức là thời Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ.
Không phải là thời Vua, Chúa độc quyền độc tài độc trị. Vì thế Chí Tôn Thiên Tử
của thời Đa Nguyên Dân Chủ 100/100 không phải là con người. Mà là nền Văn Hiến
Quốc Bảo. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, Công Bằng, Bình Đẳng. Không già không
trẻ ngự trị muôn năm trường tồn dân tộc.
Thiên Hạ : Có nghĩa là toàn nhân loại, cũng như công
Chúng. Thái Bình: Có nghĩa là ; tất cả thiên hạ, công chúng. Điều sống
chung trong một ngôi nhà Hiên Pháp. Luật Pháp.Đạo Pháp Nhân Quyền, Dân Chủ.
Công Bằng, Bình Đẳng ai cũng như ai. Thái Bình an lạc. Tự Do mưu cầu hạnh phúc.
Như vậy câu 486 : Hiệu, Xưng, Thiên Hạ, Thái Bình đã giải
rõ.
Câu:
487 Đông, Tây, Vô Sự, Nam. Thành, Quốc Gia.
Đông - Tây : Ý nói Phương Đông, lẫn Phương Tây.
Vô Sự : Có Nghĩa Nền Văn Hiến Quốc Bảo Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ
Nghĩa Đại Đồng xuất hiện. Lan truyền đến đâu thời bình yên Vô Sự đến đó. Lần lần
chấm dứt chiến tranh.
Nam : Ý nói nước Việt Nam. Dân Tộc Việt Nam.
Thành Quốc Gia: Ý nói Việt Nam đã đi vào thống nhất. Đi vào
độc lập, không còn nô lệ , dù cho đó là nô lệ văn hóa ngoại lai, nô lệ kiến thức.
Nô Lệ Thần Quyền. Tất cả điều biến mất không còn .Bách Việt Văn Lang hội tụ trở
về. Trở thành một Quốc Gia Hùng mạnh, kỳ lạ nhất thế giới.
Như vậy câu 487 Đông, Tây, Vô Sự, Nam, Thành, Quốc Gia đã được
giải rõ.
487 là câu cuối cùng của sấm trạng Bạch Vân Tiên Tri. Đại kỳ
nhân đại tài Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Những câu sấm đã làm đau đầu không biết
bao nhiêu anh hùng hào kiệt, suốt cả đời đau đầu vì nó.
* * *
Đài, Phương, Phúc Địa, Giáng Sinh
Cửu, Trùng, Thụy Ứng, Long Thành, Ngũ Vân
Phá, Điền, Thiên Tử, Giáng Trần
Dũng Sĩ, Nhược Hải, Mưu, Thần, Như Lâm
Trần Công, Nải, Thị, Phúc Tâm
Giang Hồ, Tử Sĩ, Đào, Tìm, Xuất Du
Tướng Thần, Hệ Xuất, Y, Chu
Thứ Kỵ, Phục, Kiến, Đường, Ngu, Thi Hành
Hiệu, Xưng, Thiên Hạ, Thái Bình
Đông, Tây, Vô Sự, Nam Thành Quốc Gia
Kim chỉ nam đã khai mở, lộ rõ hầu hết nội dung chính của
thiên cơ. Chúc các Bạn yên vui hạnh phúc.
Có lẽ nhiều Bạn cũng rất buồn vì còn nhiều câu sấm chưa được
giải mã. Nhưng không sao hiểu được bấy nhiêu Cơ Sấm cũng đã quá đủ cho các Bạn.
-----------------------------------
HỘ PHÁP
CAO ĐỨC TOÀN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét