. . . . LONG HOA MẬT TẠNG QUYỂN 2 ~ tranminhthang1145

Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2016

LONG HOA MẬT TẠNG QUYỂN 2

QUỐC BẢO CHÂN KINH

LONG

HOA

MẬT TẠNG

KINH

THIÊN ẤN - THIÊN BÚT

GÒ HỘI

ĐỨC PHỔ - QUẢNG NGÃI

2000

Cao Đức Thắng



QUYỂN 2

CHƯƠNG  5

PHẦN 4

Thái Tử Hùng Lan càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, thông minh khác thường, khôn ngoan, Đạo Đức nhân từ hiếm thấy. Thái Tử tuy tuổi còn nhỏ nhưng tiếng lành đồn xa lan rộng khắp nơi.

Ngày qua tháng lại như thoi đưa, mới đó Thái Tử Hùng Lan đã hơn 14 tuổi, một hôm Thái Tử một mình dạo chơi chốn hoa viên, thời bổng dưng xuất hiện một người xa lạ, Thái Tử chưa từng gặp bao giờ. Người ấy chấp tay cuối đầu chào Thái Tử. Thái Tử nhìn người xa lạ, Tiên Phong Đạo Cốt khí chất khác phàm sinh lòng kính nể. Thái Tử chấp tay thi lễ hỏi Ngài từ đâu đến, tìm ta có chuyện gì? Người xa lạ đáp hạ dân từ Cội Nguồn đến, nghe tiếng Thái Tử thông minh hơn người, không có câu hỏi nào mà Thái Tử bí trả lời không được, nên đến đây hỏi Thái Tử vài câu. Thái Tử nhìn người xa lạ hỏi Cội Nguồn là ở nơi nào?

Người xa lạ đáp, Cội Nguồn nếu nói xa thời xa lắm, nếu nói gần thời ở ngay trước mắt. Thái Tử khó hiểu với lối trả lời này, thấy Thái Tử chú tâm suy nghỉ, người xa lạ nói Thái Tử cho phép hạ dân hỏi đôi lời được không? Thái Tử đáp Ngài cứ hỏi. Người xa lạ hỏi thưa Thái Tử ai cũng biết Thái Tử sẽ là vị Quốc Vương chủ nhân của một đất nước Xích Quỉ giàu có hùng mạnh, Thái Tử nghỉ về nhân loại khi nhân loại vẩn còn nhiều sự khốn khổ, khổ về mê muội, khổ về chiến tranh, khổ về lạc hậu, khổ về sanh lão bệnh tử. Thái Tử nghỉ về mình thế nào? Lối sống cũng như sự chết.

Thái Tử hết sức ngạc nhiên với lối hỏi này, ngập ngừng một lát rồi trả lời. Con người là Động vật thiêng liêng trên cả muôn loài Cầm Thú. Con người là giai cấp Động vật Chính trị, dòng máu Chính Nghĩa, tự chủ trực tính của chính mình, vì vậy con người có thể nhận thức được cuộc sống của chính mình, sống trong hạnh phúc hay sống trong đau khổ. Sanh ra ở đời ai cũng muốn mình được Thăng Hoa, nhất là sống trong hạnh phúc, sống trong Độc Lập Tự Do, sống trong Luật Pháp Bình Đẳng, nhân quyền được bảo vệ, Tự Do mưu cầu hạnh phúc thời cuộc sống ý nghĩa hơn.

Có lẽ cuộc sống nhân loại thời nay chưa được như vậy nhất là tần lớp nhân dân, vì họ đang sống trong chế độ, sống dưới cửa Quyền Độc trị, phong kiến Thần Giáo. Không phải sống trong Chủ Nghĩa Đại Đồng, sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý Bình Đẳng Đạo Đức. Quốc Vương chỉ là đầy tớ trung thành, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý Bình Đẳng Chính Nghĩa mà thôi, tôn thờ Chân Lý không tôn thờ Tà Giáo. Nhưng nhân loại hiện nay chưa được như vậy nhất là tần lớp nhân dân.

Họ đang sống dưới chế độ phong kiến Thần Giáo, phong kiến Tộc trị, tiến xa hơn nữa là chế độ Độc trị, chế độ Cai trị như thời Kinh Dương Vương ta, một lối sống được coi như là hơn hẳn các Vương Quốc đất nước khác. Nhân loại đang sống trong nô lệ nội trị, nô lệ ngoại ban. Sống trong lai dịch khổ sai, sống trong áp bức, sống mất tự do, sống trong lo âu sợ hãi, chưa nói đến nghèo đói và bệnh tật. Sống như vậy thời có ý nghĩa gì và tôi đang tìm hướng đi mới, hướng đi của Chủ Nghĩa Đại Đồng, Chủ Nghĩa Bình Đẳng, Công Bằng Văn Minh, Chủ Nghĩa của sự tự do tôn trọng nhân quyền hạnh phúc.

Người khách lạ không mời mà đến càng nghe Thái Tử nói lên ý tưởng của mình, nếu không phải là bật Đại giác ngộ thời không thể nào hiểu nỗi ý tưởng thâm cao ấy, càng nghe càng khâm phục Thái Tử vô cùng. Thái Tử nói ở đời ai không chết, dù cho là Vua hay dân, giàu hay nghèo, không chết lúc trẻ thời cũng chết về già, cái chết sẽ nhất định đến với con người sớm hay muộn.

Vì quá hiểu rõ như vậy, nên tôi đã chọn cho mình một hướng đi. Hướng đi của bậc giác ngộ, sống chết đều có nghĩa. Sống có giá trị là sống vì nhân loại, sống cho nòi giống, sống vì non sông Tổ Quốc. Chết có ý nghĩa là lối chết bất tử. Chết vinh quang mãi mãi thường còn là chết vì Chính Nghĩa, chết vì nhân loại. Nếu không tìm cho mình lối chết bất tử như thế, thời cái chết có ý nghĩa gì. Lối sống vô vị cái chết trống rổng. Nói đến cái chết thời không ai tránh khỏi, không chết trẻ thời cũng chết về già. Vô thường sẽ cướp đi sinh mạng của chúng ta, cái chết tự nhiên theo qui luật của Tạo Hóa. Vì quá hiểu rõ như vậy nên tôi đã chọn cho mình một hướng đi. Chết, sống đều có ý nghĩa của bật giác ngộ.

Nếu nói chết là hết, thời ai ai cũng như nhau, thiện ác theo đó cũng không còn. Nhưng chết mà không hết chỉ mất đi thể xác, còn Linh Hồn thời sống mãi, thời sao đây. Không lẽ mang theo cả gánh hành lý tội ác xuống địa ngục. Sống trong đày đọa, thời sống đau khổ chớ có ý nghĩa gì. Sống trong tù đày, sống trong sự tra tấn tàn bạo của Quỷ dữ. Sống trong đói khác đau đớn, sống trên Đao Búa và Chảo dầu, đó là chưa nói đến sống trong hỏa ngục. Thời Linh Hồn thống khổ hơn nữa.

Chết mà không hết chỉ mất đi các xác phàm tục. Còn Linh Hồn thời sống mãi, thời sống Thiện sống Ác có hai kết quả khác nhau. Sống Thiện có kết quả tốt, Sống Ác có kết quả xấu. Sống Thiện thời Linh Hồn được siêu sanh về Trời, hưởng phước báo vô tận muốn gì được nấy. Sống trong cảnh giới Đại Đồng, các quyền con người được thể hiện đầy đủ như: Quyền tự do tự tại, quyền mưu cầu hạnh phúc muốn gì được nấy, không có thống trị, cai trị, sống trong Bình Đẳng Tôn Trọng lẩn nhau, sống trong hạnh phúc. Sống Ác có kết quả xấu, khi thể xác phàm tục mất, Linh Hồn liền sa đọa vào âm phủ, khi ta muốn ăn năng hối cải thời cũng đã quá muộn. Vì vậy tôi lúc nào cũng loại bỏ sai lầm luôn luôn hướng tới Chân Thiện Mỹ. Loại bỏ quét sạch dơ bẩn rác rưởi tội lỗi trong tâm hồn, phát huy cuộc sống Đạo Đức vì nhân loại mà hy sinh, vì nhân loại mà cống hiến đời mình. Khi tôi trở thành Quốc Vương, thời Quyền sống, Quyền Tự Do, Quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi con người được tôn trọng, được bảo vệ không một ai có quyền xâm phạm, khi họ mưu cầu tư lợi đúng Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Bằng văn minh là điều trên hết. Thương yêu dân chính là thương yêu bản thân mình, oán lấy ân mà trả, lòng tha thứ đối với kẻ phạm tội giáo dục Đạo Đức thường xuyên đối với dân chúng là giảm bớt hình phạt nhà tù, đó là con đường Chân Chính, cánh cửa Địa Ngục khép lại, cánh cửa Thiên Đàng mở ra, đưa nhân loại đến Chân Trời hạnh phúc.

Sở dỉ con người luôn luôn lầm lỗi là vì con người một phần vì trình độ dân trí còn thấp. Một phần chưa gặp được Chánh Giáo không có Kim chỉ Nam. Lại thường đối mặt với bao cuộc sống gian trá đầy cạm bẫy, đầy chông gai. Dần dần con người trở nên tiêu cực, chỉ biết nghỉ cho mình còn Thiên Hạ thời sao cũng mặc, không mấy quan tâm. Đâu đó cũng là một sự sai lầm trong cuộc sống. Thật ra con người khó sống riêng lẻ được mà phải sống chung cùng nhau, chung gánh vát xã hội. Gánh trách nhiệm bảo tồn cuộc sống cộng đồng. Mình sống vì người người sống vì mình.
Tất cả từ Vua cho tới dân ai ai cũng sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức đó mới là cuộc sống có trình độ dân trí cao. Lối sống Dân Chủ Công Bằng văn minh. Muốn có một cuộc sống bình yên hạnh phúc mà xung quanh ta với bao kẻ thù chống phá, bao kẻ rình rập trộm cướp, gian ác thời cuộc sống bình yên hạnh phúc sao được.

Vậy mới biết người nông dân ngủ yên không lo đói là kho lúa thóc vẫn còn đầy. Làm Quốc Vương mà ngủ yên trên cung vàng, Điện Ngọc là nhờ dân làm lành hướng Thiện. Xung quanh Quốc Vương là các bật trung Thần, hết lòng vì Quốc Vương. Hết lòng chăm lo cho dân, cho nước.

Muốn có một gia đình hạnh phúc thật sự, thời làm Cha Mẹ phải có Đạo Nhơn Luân Hiếu Nghĩa, để cho con cái noi theo.

Muốn có một Quốc Gia yên ổn Thái Bình Thịnh Trị, thời phải biết dạy dân sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức hướng về Cội Nguồn. Dân tự nuôi dân bằng vật chất, còn nhà nước nuôi dân bằng truyền thống văn hóa Chính Nghĩa, nuôi lớn Tinh Thần Dân Tộc, nuôi lớn trình độ dân trí, để dân tự làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức cũng như truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn. Dân làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức làm chủ Văn Hóa Cội Nguồn, thời Quốc Vương được ngủ yên, sống yên không có một đất nào xâm lược nổi, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Một vị Quốc Vương anh minh như thế, thời còn lo gì không có Độc Lập Tự Do, dân giàu nước mạnh, nhất định Thiên Đàng Cực Lạc sẽ ở ngay chốn nhân gian.

Còn làm vị Quốc Vương chỉ biết lo cũng cố tu bổ cho quyền lực của mình, vây cánh của mình, mới suy nghỉ cho là trúng nhưng đó là một sự sai lầm lớn. Một Quốc Gia hùng mạnh phải nói toàn dân tộc nước đó phải nhận thức được, cái chung phải đứng bên cái riêng. Non Sông Tổ Quốc, truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn coi trọng hơn bản thân, tư nhân của mình.

Cái chung ở đây không phải là cái chung như ở thời phong kiến Thần Giáo, phong kiến Địa Chủ, phong kiến Chế Độ nói chung là ở các thời phong kiến. Đứng đầu là Đế, Vương, Vua, Chúa của các Họ Tộc. Phần nhiều là do tranh giành, được xưng Vua, thua là giặc, không phải do tín nhiệm nhân dân tôn phong suy Tôn mà ra. Đồng Bào nhân dân phải sống dưới cái chung Thống trị Độc Quyền Độc Trị của Đế, Vương, Vua, Chúa dưới chế độ Độc Trị hà khắc khốn khổ.

Còn cái chung ở đây là của chung toàn dân tộc. Không có chế Độ Độc Quyền cai trị, mà toàn dân tộc sống chung nhau trong Hiến Pháp, Luật Pháp, Văn Hóa truyền thống Cội Nguồn. Tinh Hoa xã hội con người tiến bộ. Non Sông Tổ Quốc, Hiến Pháp, Luật Pháp, Văn Hóa truyền thống Dân Tộc không của riêng ai, mà của toàn dân tộc. Toàn dân là Chủ. Vì thế một đất nước hùng mạnh là một đất nước toàn dân là Chủ, chung nhau bảo vệ Tổ Quốc, chung nhau bảo vệ Hiến Pháp. Luật Pháp, truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn. Một đất nước có trình độ dân trí cao văn minh như vậy. Thời người đứng đầu nhà nước đó phải là người gương mẫu về mọi mặc, do dân suy tôn tính nhiệm mà ra. Thi hành Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý xã hội.

Dưới các triều Đại phong kiến. Dù là phong kiến Địa Chủ, phong kiến Thần Giáo, phong kiến Chế Độ, thời nào cũng tìm ẩn tham quan quá lớn. Thi nhau mà vơ mà vét làm hại Non Sông Tổ Quốc, làm hại dân tộc, nội bộ chiến tranh truyền miên không dứt. Nồi da nấu thịt thê thảm vô cùng, thời trước thi nhau loạn thời này cũng thế. Văn Hóa đồi trị thi nhau mà ra đời làm hại đến truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn. Đưa đẩy dân tộc vào cảnh tối tăm.

Vậy mới biết cành lá khô héo là do gốc mục nát hỏng, sông cạn kiệt là do nguồn cạn kiệt. Nhìn một Dân Tộc hùng mạnh, cành lá sum sê, thời cũng biết Dân Tộc đó có gốc gác vững vàng, Hiến Pháp, Luật Pháp không phải của Chế Độ. Truyền thống không phải là truyền thống của Chế Độ mà là Hiến Pháp, Luật Pháp. Truyền thống Tinh Hoa dựa trên căn cứ truyền thống Văn Hóa lâu đời, có cả sức mạnh Hồn Thiên Dân Tộc hàng nghìn nghìn năm. Dòng lịch sử truyền thống tuôn trào mãi làm cho tinh thần Dân Tộc luôn tràng trề niềm khiêu hảnh đầy sức sống. Hết thế hệ này đến thế hệ khác liên miên bất tận không dứt.

Nhìn một Dân Tộc luôn luôn bị nô lệ, cành lá héo tàn, thời cũng biết Dân Tộc đó gốc gác có vấn đề. Hiến Pháp, Luật Phát, Văn Hóa truyền thống, không phải là Tinh Hoa Hiến Pháp, Luật Pháp, Văn Hoa truyền thống Cội Nguồn lâu đời. Mà chỉ là Hiến Pháp Chính Trị, Luật Pháp Chính Trị, Văn Hóa truyền thống Chính Trị của Chế Độ đó mà thôi. Mất đi cái gốc Đồ sộ lâu đời của nó mà cũng mất luôn sức mạnh của Hồn Thiên Dân Tộc khó mà bền vững Độc Lập lâu dài. Vì chính nó tự hủy diệt lấy nó.

Một Dân Tộc có tương lai rộng mở là một dân tộc có tầm nhìn xa rộng lớn, bỏ những tập tục lạc hậu, gốp nhặc Tinh Hoa nhân loại. Làm hành trang cho những bước tiến của mình. Một đất nước dân giàu nước mạnh, không có con đường nào khác hơn là Hiến Pháp vì dân, Luật Pháp vì dân. Nói chung một cách dễ hiểu là Hiến Pháp, Luật Pháp dựng nước, giữ nước. Hiến Pháp, Luật Pháp của dân, bảo vệ dân, để cho dân tự quyền phát triển vươn lên một cách mạnh mẽ. Nhà nước ủng hộ bảo vệ, làm trọng tài cho cuộc phát triển về mọi mặt của toàn dân đi lên của xã hội.

Một đất nước có nền Độc Lập lâu đời. Thời đất nước đó có nền Văn Hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Dân Tộc, nền tản vững chắc Độc Lập lâu dài. Một đất nước có nền Quốc Đạo nhất là do người dựng nước sáng lập ra, thời dân tộc đó đời đời hạnh phúc. Nếu dân tộc đó biết giữ gìn sinh mạng của chính bản thân mình, luôn luôn đem truyền thống tốt đẹp ấy truyền dạy cho con cháu, thắp sáng mãi tinh thần yêu nước yêu truyền thống tốt đẹp của mình.

Cha Mẹ có Đạo là tấm gương sáng cho con cái noi theo. Vương, Quan có Đạo thời trị dân không cần động đến gươm, đao, giáo, mác mà quân dân vẩn tuân theo răm rắp. Vậy mới biết Văn Hóa truyền thống Đạo pháp là phép mầu hửu hiệu, uốn nén dân còn trên cả đòn roi gươm, đao, giáo, mác tầm thường.

Một đất nước có Nền Văn Hiến Quốc Đạo. Vương với Dân cùng hội cùng thuyền, xã hội càng thêm ấm no hạnh phúc. Người khách lạ càng nghe Thái Tử lập luận càng sững sốt. Chấp tay thưa hỏi. Thưa Thái Tử Đạo là giống gì mà nhiệm mầu uy lực như vậy? Thái Tử đáp Đạo không là giống gì cả, mà chỉ là con đường rộng lớn đầy hoa thơm quả ngọt, không chông gai con đường đoàn kết Đại Đồng Bình Đẳng. Con đường yêu nước thương dân hay nói một cách dễ hiểu Đạo là con đường Chính Nghĩa, con đường hòa hợp các Dân Tộc. Con đường Đạo Đức làm cho bản thân, gia đình, xã hội, đất nước Tổ Quốc càng ngày càng xuân. Nhân loại đi theo Đạo là đi đến chân trời hạnh phúc. Nhưng Đạo thời có hai, Tiểu Đạo và Đại Đạo.

Tiểu Đạo là con đường hẹp và ngắn lại nhiều chông gai, đó là con đường Đời nhiều chông gai, con đường Chính Trị, con đường tranh bá xưng hùng mạnh được yếu thua, đổi ngôi như thay áo, con đường hận thù chồng chất.

Đại Đạo là con đường lớn xuyên suốt quá khứ vị Lai, từ Địa Ngục cho tới tận Thiên Đàng. Con đường Đại Đồng Bình Đẳng. Con đường làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ Non Sông Tổ Quốc, làm chủ vũ trụ, làm chủ Thiên Đàng Cực Lạc. Ai đi trên con đường Đại Đạo, mỗi bước chân là mỗi bước hạnh phúc. Vì con đường Đại Đạo là con đường từ bi bác ái nhân nghĩa, con đường giải thoát tội lỗi, giải thoát nô lệ, giải thoát sự ngu muội của chính bản thân mình. Trở thành người thông thái Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa sống tự do và làm chủ vũ trụ, làm chủ Thiên Đàng Cực Lạc.

Người khách lạ hỏi, thưa Thái Tử, Đạo thời có hai, Tà Đạo và Chánh Đạo làm sao ta phân biệt nhận biết? Thái Tử đáp: Đạo là con đường đi, đường hướng, đường lối nhưng Tà Đạo và Chánh Đạo thời khác nhau rất xa. Thiện ác hai nẻo như Thiên Đàng và Địa Ngục.

Thái Tử nói: Con đường nào dẩn Thiên Hạ nhân loại đến chiến tranh, tranh giành quyền lực, chiến tranh xâm lược, chiến tranh bè phái, giáo phái đẩm máu nhất là đẩm máu nồi da nấu thịt, tệ hại hơn nữa là đẩm máu trong Họ Tộc. Trong tình thương ruột thịt, giết hại người thân lập công bè phái giáo phái cũng chỉ vì phục vụ cho tranh bá quyền lực, lên quan lên chức Tà Đạo là con đường tranh bá quyền lực dẩn dắc nhân loại đi trên con đường chiến tranh được là Vua thua là giặc. Thật ra giặc và Vua chẳng khác chi nhau, tham lam tật xấu, gian xảo ích kỷ. Danh và lợi dẩn đến tàn sát lẩn nhau, kẻ thắng thống trị, người thua bị trị, nô lệ, tù đày hoặc giết đi.

Có những tay hôn Quân tàn bạo. Bất nhân, bất nghĩa, bất trung đối với các bậc Tiền nhân dựng nước. Bất hiếu với các bật Cha Ông. Cống Cao Ngạo Mạng. Liêm Sỉ chẳng cần, thêu dệt lên bao tà thuyết hoang tưởng, không thực tế. Tay cứ vấy máu mà miệng hô hòa bình, tham lam vơ vét của công, lấy sạch của dân, ngoài miệng thời hô lo cho dân cho nước. Nhà tù nới rộng, Đao Búa thêm mài tàn bạo hết ngõ nói. Oán thêm oán, hận thêm hận, thù chồng thù như núi như non.

Tà Đạo là con đường dẩn đến mọi thói hư tật xấu. Sung sướng chỉ đem lại cho một nhóm người, còn toàn bộ là khốn khổ. Con đường tươi sáng đâu không thấy mà thấy trước mắt chỉ là vực thẳm tối đen, đấu tranh tàn sát nhau. Tìm hạnh phúc, hạnh phúc đâu không thấy mà thấy cảnh Địa Ngục ngay trước mắt.

Còn Chánh Đạo là con đường bỏ Ác hành Thiện. Con đường dẩn tới Thái Bình An Lạc. Con đường dẩn dắc nhân loại trở về với Cội với Nguồn, đến với Đức Tổ Tiên. Đấng sáng lập lên vũ trụ cùng con người. Chung sống trong Hiến Pháp Chánh Đạo, Luật Pháp Chánh Đạo, Công Bằng văn minh Bình Đẳng. Chánh Đạo là con đường vì dân vì nước vì Cội Nguồn. Chánh Đạo là hiện thân của Hiến Pháp Chính Nghĩa, Luật Pháp Chính Nghĩa, Công Lý Chính Nghĩa, Đạo Đức Chính Nghĩa. Chánh Đạo là con đường vì dân vì nước vì nhân loại anh em vì Đồng Bào dân tộc. Chánh Đạo là con đường rộng lớn, còn đường Đại Đồng Bình Đẳng ((Chủ Nghĩa Đại Đồng)). Không phải giáo phái, bè phái, tôn giáo không sống theo giáo điều mà chỉ sống theo Hiến Pháp Chân Chính. Luật Pháp Chân Chính. Công bằng văn minh. Chánh Đạo là con đường không đi trên sự đau khổ của nhân loại, vì nhân loại đều phát xuất từ một nguồn gốc, tất cả đều là anh em. Con đường Chánh Đạo là con đường nới rộng vòng tay đoàn kết, lá lành đùm bọc lá rách. Người giàu sang sẽ bớt cho người nghèo, người mạnh thương người tàn tật. Chánh Đạo chính là Chính Nghĩa, mà Chính Nghĩa chính là lòng nhân Đạo của con người.
- Con đường Tà Đạo là phục vụ cho lòng Tà Đạo.
- Con đường Chánh Đạo là ung đúc lên lòng Chính Nghĩa.
- Con đường Tà Đạo chủ ý: tranh giành đoạt lợi.
- Con đường Chánh Đạo chủ thuyết, tôn trọng lẩn nhau.
Chủ quyền của Tà Đạo là thống trị, cửa quyền ác bá, chiến tranh và hận thù, máu trả bằng máu, thịt đè lên thịt, bóc lột dã man.

Chủ ý của Chánh Đạo là vì người không vì mình, nhân loại là anh em, không phân biệt màu da chủng tộc, tất cả đều là anh em một nhà.

Chủ thuyết của Tà Giáo Tà Đạo là Bè Phái, Giáo Phái. Đối lập nhau và luôn luôn mâu thuẩn với nhau. Thậm chí còn đã kích nhau.

Chủ thuyết của Chánh Đạo là chủ nghĩa Đại Đồng bình đẳng. Trên con đường Thánh Thiện siêu phàm. Con đường Chánh Đạo là con đường rộng lớn xuyên suốt quá khứ vị lai. Từ Địa Ngục đến tận các cõi Trời.

Vì vậy con đường Chánh Đạo rất khó đi cho những người tâm còn nhỏ hẹp. Rất dễ đi với những con người có Đức. Tấm lòng rộng mở. Sống vì người hơn là vì mình.

Tà Đạo là con đường hẹp, đầy dẫy chông gai. Con đường dẩn tới chiến tranh, dẩn tới địa ngục, âm phủ. Mỗi bước chân đi trên con đường Tà Đạo là mỗi bước chân lo âu sợ hãi. Cuối cùng cũng dẩn đến cảnh trầm luân đọa lạc.

Tà Đạo và Chánh Đạo, hai con đường khác nhau quá rõ, trắng với đen khó mà lẩn lộn nhau, đối với người sáng tâm sáng mắt. Còn tâm u minh người mù thời khó mà nhận ra.

Nghe Thái Tử lập luận giảng thuyết. Người khách lạ hết kinh ngạc này đến kinh ngạc khác. Mà ngay cả Hạ Thiên vũ trụ cũng không nghe thấy huống chi là chốn nhân gian. Thời ý tưởng Thái Tử vô cùng xa lạ. Có thể nói sự hiểu biết của Thái Tử, theo trình độ dân trí hiện nay thời khó mà hiểu được một lời của Thái Tử nói. Ngay cả như ta đây là Thiên Thần trí tuệ mà nghe càng lạ lẩm, cao xa khó hiểu huống chi là người phạm tục ý thức lạc hậu, mê tín dị đoan sâu dày.

Thì ra đây người khách lạ không mời mà đến chính là Thiên Thần Trí Tuệ ở trên sáu tần Trời Cõi Dục, xuống chốn nhân gian thử Tài Đức, cũng như sự hiểu biết của Thái Tử. Ở cõi Trời hạ giới hàng nghìn nghìn năm, chưa nghe thấy ai giảng thuyết thế này. Không lẽ đây là Vương Đạo mà Đức Cha Trời đã dạy cho Đức Chí  Tôn.

Thiên Thần Trí Huệ hỏi? Thưa Thái Tử. Hiện nay chốn nhân gian, phương Đông Thần Giáo thịnh hành như thờ lửa, Thần lửa, thờ Thần mặt trời, thờ Thần núi, Thần sông, Thần biển, Thần mưa, Thần sấm sét v.v… Phương Tây thời thịnh hành phù thủy, thờ ma thuật, quỉ thuật, yêu thuật. Đại đa số các nước sống theo giáo điều của Thần giáo, điều lệ của Phù Thủy. Không thấy đất nước nào sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp , Đạo Pháp cả. Thái Tử tìm ở đâu ra Đại Đạo, Thiên Đạo, Cội Nguồn, lập lên Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, thay cho giáo Điều và Điều lệ đã ăn sâu vào con người hàng nghìn nghìn năm.

Thái Tử đáp. Đây là một điều rất khó nhưng không phải vì sự khó ấy mà tôi sẽ bỏ qua. Thiên Đạo Cội Nguồn vũ trụ sẽ không ở đâu xa, có thể ở ngay trước mắt. Xét đi xét lại tất cả là vũ trụ, không có chổ nào là không phải vũ trụ. Thậm chí Linh Hồn Thê Xác chúng ta cũng là thành viên vũ trụ. Chẳng hạn như Nước và bọt Nước. Gốc của các bọt Nước là Nước, tuy hai mà một bọt Nước cũng là Nước, tuy một mà hai vì bọt Nước có hình dạng còn Nước thời không có hình dạng nhất định, ở trong ống thời hình ống, ở trong lu thời hình lu, ở trong không gian thời hình không gian.

Có thể nói muốn tìm thấy Đại Linh Hồn vũ trụ ví như Nước thời phải làm chủ cho được Tiểu Linh Hồn bọt Nước của chính mình hướng về Cội Nguồn, hội nhập vào Đại Linh Hồn vũ trụ ví như nước, thời sẽ tìm ra Đại Đạo Thiên Đạo Cội Nguồn vũ trụ, lập lên Hiến Pháp Đại Đồng vũ trụ, Luật Pháp Đại Đồng vũ trụ, Đạo Pháp Đại Đồng vũ trụ, làm lợi ích cho toàn nhân loại, Thiên Thần trí tuệ mừng rở vô cùng, vái lạy Thái Tử nói. Thái Tử là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần mới có trí huệ vô tận thâm thâm vi diệu như vậy. Đấng Cứu Thế Hồng Phúc thay cho nhân loại nhân gian, nói xong Thiên Thần biến mất.

Sự xuất hiện và biến mất của Thiên Thần đã đánh thức Thái Tử một điều hết sức quan trọng mà Thái Tử cần phải nắm bắt. Đó là Thần Thông, có Đức có Trí nhưng thiếu đi Thần Thông thời khó mà vượt qua bao chướng ngại, trên con đường tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn. Và thật vậy Thiên Đạo Cội Nguồn Tiên Rồng là Đại Đạo vũ trụ, Tam Bảo Chí Tôn. 1 Pháp Tạng, Hiến Pháp: 2 Luật Tạng, Luật Pháp: 3 Thiên Tạng, Công lý Bình Đẳng pháp Văn Hóa Cội Nguồn, Hiến Pháp, Luật Pháp, Công lý Đạo Pháp vũ trụ là Văn Hóa tối cao, con đường Đại Đạo xuyên qua tư tưởng, xuyên qua không gian, thời gian, xuyên qua quá khứ vị lai, muốn tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn ngoài Hùng Bi Trí Đức còn phải đạt đến cảnh giới tối cao, Thần Thông pháp thuật, Thần Thông trí huệ, thời mới tìm ra Đại Đạo Văn Hóa Cội Nguồn. Thái Tử làm sao để tìm ra Đại Đạo Chủ Nghĩa Đại Đồng Văn Hóa Cội Nguồn. Chúng ta hảy đọc tiếp những đoạn Kinh văn sau.
**************


CHƯƠNG 5

PHẦN 5

CHÌA KHÓA VẠN NĂNG.

Thái Tử nghỉ không phải chỉ làm Quốc Vương ngự trên Ngai Vàng Điện Ngọc mới là uy quyền cao cả. Đó chỉ là uy quyền cao cả tạm thời cuộc đời ngắn ngủi sống trên vật chất chớp mắt đã qua, mọi chuyện rồi trở về con số không, cái không trống rổng. Chỉ có sự nghiệp Đạo Đức mới là sự nghiệp vĩ Đại vĩnh cửu, sự nghiệp bất tử không bao giờ mất mãi mãi trường tồn. Tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đạo vũ trụ, đúc kết Tinh Hoa Chân Lý, vạch ra đường hướng đúng đắn chân thiện, để cho nhân loại Thiên Hạ Đồng Bào đi theo làm theo tìm đến cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc ở các cõi Trời Thiên Đàng Cực Lạc. Giải thoát sanh tử đi đến cảnh bất tử. Thời đó mới là việc làm cao cả, sự nghiệp vĩ đại, không có một sự nghiệp nào sánh bằng. Ngay cả những Quốc Vương giàu có nhất thế giới, hùng mạnh nhất thế giới cũng không sánh kịp bằng mảnh lông sợi tóc của sự nghiệp Đạo Đức Văn Hóa Cội Nguồn.

Thái Tử phát họa ý tưởng rồi đưa đến một kết luận quyết định. Quyết tìm ra Đại Đạo mở đường dìu dắt nhân loại, đưa xã hội nhân loại tiến lên, công bằng văn minh, văn minh vật chất lẩn văn minh tinh thần. Tất cả sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý Đạo Pháp xã hội, tiến tới làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, làm chủ non sông Tổ Quốc cho đến làm chủ vũ trụ.

Khi con người mới sanh ra, thời Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho con người nhiều thứ quyền và làm chủ tất cả. Trong các thứ quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho mỗi con người trong đó có Quyền Sống, Quyền Độc Lập, Quyền Tự Do, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc, có cả nhân Quyền, Quyền con người. Con người là chủ Đạo của Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý Đạo Pháp vũ trụ, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội làm chủ non sông Tổ Quốc, cho đến làm chủ vũ trụ, tất cả nhân loại sống trong xã hội công bằng văn minh. Xã hội Thiên Đàng Cực Lạc Quốc. Vì thế con người mới sanh ra. Thời Tổ Tiên Khai Hóa đã ban cho con người kho tàng trí huệ. Mà chiếc chìa khóa vạn năng ấy để mở kho tàn trí huệ, không đâu xa đó là chìa khóa Tiểu Linh Hồn chúng ta vậy. Chúng ta sẽ dùng nó mở cánh cửa Cội Nguồn vũ trụ, tiến tới làm chủ tất cả, cũng như các Quyền mà Tổ Tiên đã ban cho mỗi con người để mở tung cánh cửa Cội Nguồn vũ trụ làm chủ kho tàng kiến thức vũ trụ. Thái Tử lần lần tháo gở mắt gút rắc rối ngăn cản của vô thường và vô minh. Lần tiến tới mục đích cuối cùng là Đại giác ngộ Chánh Đẳng, Chánh giác.

Thái Tử là bật Đại thông minh, nếu không nắm bắt rõ Linh Hồn của chính mình, thời không bao giờ tìm thấy Đại Linh Hồn vũ trụ, Đức Khai Hóa Tổ Tiên. Bản thể Linh giác tối cao vũ trụ, nếu chỉ hướng ngoại tìm kiếm trong thế giới vật chất dù cho tìm khắp trong vật chất, khắp thế giới vũ trụ cũng không tìm thấy bản thể Linh giác tối cao của vũ trụ, kho tàng tri thức của tâm Linh. Muốn tìm thấy Đại Linh Hồn vũ trụ, trước hết phải tìm thấy nắm bắt Tiểu Linh Hồn của chính mình và nó tự làm chủ lấy nó và dùng nó để mở ra cánh cửa Cội Nguồn vũ trụ và chỉ có bọt Nước mới tìm ra bản thể của Nước.

Lại nữa Linh Hồn là vật thể siêu Linh khó mà nắm bắt, khó mà hàng phục, tìm tàng ẩn chứa muôn vạn Chủng Tánh, của muôn cảnh giới, từ hiện tại đến quá khứ. Cảnh giới sắc từ Linh giác sắc không hiện ra. Cũng giống như cảnh giới của Điện hiện lên màng ảnh ti vi, thật ra Điện vốn không không có cảnh giới đó. Nếu chúng ta tự hiểu Linh Hồn của chúng ta.
1: Tánh không tánh: đó là thật tánh Linh Hồn chúng ta, từ tánh không này Linh Hồn của chúng ta tạo khởi ra vô lượng tánh khác nhau như tánh tham, tánh sân, tánh si, tánh cống cao ngạo mạng, tánh nghi, tánh bảo thủ cho đến tánh Thiện tánh ác, nói chung là 8 muôn 4 nghìn tánh, nhưng tất cả chỉ là giả tánh do tánh không tánh khởi tưởng tạo ra mà thôi. Như vậy nắm bắt thật tánh Linh Hồn, tánh không tánh nó tự làm chủ lấy nó, trở thành tánh tự nhiên, tự nhiên tánh.
2: Tướng không tướng: Đó là thật tướng Linh Hồn chúng ta.
3: Sắc không sắc: Đó mới là thật sắc Linh Hồn chúng ta. Từ tướng không tướng: sắc không sắc này, khởi tưởng phân biệt hiện ra vô lượng cảnh giới trong Linh Hồn chúng ta, cảnh giới hửu sắc. Ví dụ như cảnh giới xã hội, cảnh giới chiến tranh, cảnh giới hòa bình, cảnh giới thiện, cảnh giới ác v.v...

Như vậy nắm bắt thật tướng, thật sắc của Linh Hồn chúng ta là tự nó hiểu nó, không cảnh tướng là tướng thật tướng của mình, không sắc là thật sắc của mình. Tự không làm chủ lấy không, vắng lặng tự nhiên, tất cả cảnh giới trong tâm đều không thật, do tâm thức Linh Hồn khởi tướng tạo ra mà thôi.

4: Ý không ý đó mới là thật ý của Linh Hồn, trí không trí đó mới là thật trí của Linh Hồn, tự nó làm chủ ý không trí của nó, đi vào ý trí tự nhiên. Cảnh giới tối cao của người tu trên con đường Đại Giác Đại Ngộ, bước thẳng tới cánh cửa Cội Nguồn, bước vào kho tàng Như Lai Tạng tánh vũ trụ. Kho tàng tri thức vũ trụ.
5: Nhưng cánh cửa Cội Nguồn vũ trụ ấy không dễ gì mở ra được, phải phát Đại Nguyện rộng lớn mới mở nổi Như Đại Nguyện Di Đà, Quang ÂM, Thích Ca, Địa Tạng v.v…
**************


CHƯƠNG 6

PHẦN 1

Thái Tử tuy còn rất trẻ nhưng thông minh kỳ lạ, dù cho Thần Thánh cũng không theo kịp. Thái Tử nghỉ nếu ta nắm bắt và làm chủ thật tánh, thật tướng, thật sắc, thật ý, thật trí của ta. Tánh chủ, Tướng chủ, Sắc chủ, Ý chủ, Trí chủ, tiến sâu vào con đường Tạo hóa, mở cánh cửa Cội Nguồn, tìm ra nguồn gốc Linh Hồn nhân loại, nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc thế giới vật chất, nguồn gốc vạn vật trong đó có nguồn gốc con người. Tìm ra Đại Đạo chủ nghĩa Đại Đồng Văn Hóa Cội Nguồn lưu truyền chốn nhân gian, đưa Nhân Loại qua sông mê đến bờ giác, sống mãi tự do nơi vũ trụ trên khắp cõi Thiên Đàng Cực Lạc.

Thái Tử tuy còn rất trẻ nhưng lại có tầm nhìn rộng lớn, thấy rõ tình hình thế giới hiện nay, nhất là tình hình ở phương Đông, các Vương Quốc, các Bộ Lạc, các Vương Tộc, người Kinh cũng như người Thượng, thường xảy ra xung đột, nước này với nước kia, Bộ Lạc này với Bộ Lạc nọ. Cảnh chiến tranh xung đột, cảnh chết chóc thảm thương xảy ra hằng ngày hằng tháng, hằng năm. Binh Đao máu lửa lan tràng khắp nơi, cảnh tù binh nô lệ xảy ra khắp châu lục, nhân dân sống dưới ách thống trị tàn bạo của những kẻ háo chiến, mất quyền sống, sống dưới quyền thống trị hà khắc, không còn tính nhân Đạo, dữ hơn Lang Sói Hổ Báo.

Thời kỳ tranh giành thuộc địa càng ngày càng dữ, từ phong kiến Thần giáo biến thành phong Kiến Địa Chủ, sự tranh giành thuộc địa càng về sau càng tàn bạo bất chấp thủ đoạn lòng gian trá, mánh khóe, mưu mô xảo quyệt, đánh lừa để mưu lợi, nham hiểm vô cùng, biết lợi dụng danh từ Chính Nghĩa, che đậy sự gian trá tham lam ác độc của mình, bè phái mình. Sự gian trá che đậy nầy chỉ gạt được thành phần nhân loại kém hiểu biết, làm sao che mắt gạt được Thái Tử, là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống phàm trần. Nếu đất nước nào kém văn hóa, nhất là văn hóa truyền thống, thời không tránh khỏi sự xâm lượt của nước khác, trở thành đất nước nô lệ.

 Một đất nước mà vô Đạo, không có nền Hiến Pháp, Luật Pháp Chân Chính, chỉ sống theo giáo Điều và Điều lệ của các tổ chức thống trị bè phái, giáo phái, thời dân chúng đã coi như sống trong xã hội Địa Ngục trần gian.

 Một đất nước có Nền Quốc Đạo, có Nền Hiến Pháp, Luật Pháp Chân Chính, thời dân chúng nương tựa vào Hiến Pháp, Luật Pháp thành nề, thành nếp, sức mạnh của một dân tộc đoàn kết, muôn hoa gốp phần làm đẹp mùa xuân, trăm sông nghìn suối đều chảy về biển cả, hòa mình vào dòng Đại Dương.

Chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đồng là chân lý biển cả Đại Dương, cho bao ý tưởng, lý tưởng đổ về, cho bao tổ chức, giáo phái, bè phái hòa mình vào đó trường tồn vỉnh viển, cũng chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn đưa nhân loại xích lại gần nhau, cùng nhau tiến tới xây dựng xã hội Thiên Đàng Cực Lạc.

Sống có Chân lý, sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp Chân Chính, bản thân, gia đình, xã hội, non sông Tổ Quốc như mùa xuân thắm tươi.

Sống không có Chân lý như cây thiếu nước, thiếu phân, thiếu ánh sáng mỗi ngày một héo tàn và cuối cùng bị hủy diệt. Thái Tử càng ngày càng đắm chìm trong suy nghỉ, ít nói, ít cười thường ngồi một chổ im lặng trầm tư.

Kinh Dương Vương và Vương Phi Thần Long Nữ thấy Thái Tử Hùng Lan ngày càng trầm tư như vậy, thời sinh ra lo lắng chẳng yên, liền triệu tập Vương Quan Đại Thần văn võ hỏi xem cao kiến, hầu tìm ra phương pháp làm cho Thái Tử vui.

Nước xích Quỉ có vị Quốc Sư Thục Lục, có sáu biệt tài không ai có nổi. 1 là tài Quân sự, 2 là tài Chính trị, 3 là tài Văn thơ, 4 là tài Võ thuật, 5 là tài Hội họa, 6 là tài Âm nhạc. Lại có nhiều kinh nghiệm về trị Quốc, ngoại giao với các nước láng giềng với tài ngoại giao này làm cho các Vương Quốc lân cận kính nể, được coi như là một Vương Quốc Xích Quỉ giàu có hùng mạnh nhất thời ấy. Danh tiếng Thục Lục lừng lẫy vang dội như sấm, các Vương Quan Đại Thần nghe nói có kế sách gì làm vui cho Thái Tử, tất cả đều lắc đầu, các Vương Quan Đại Thần còn lạ gì Thái Tử, một Thái Tử thông minh, hiểu biết ngoài sức tưởng tượng của họ, họ nhìn Thái Tử như một dãy núi cao mà họ không bao giờ vượt qua được, nói gì đến có kế sách làm vui cho Thái Tử.

Kinh Dương Vương nhìn thấy cảnh lắc đầu của các Vương Quan Đại Thần thời thở dài. Quốc sư Thục Lục thấy thế bằng thưa rằng. Muôn tâu Quốc Vương, Thái Tử là bật Trời sanh xuống thế, thông minh tài trí khác thường, các nhân tài dị sỉ ở nước Xích Quỉ ta lần lượt không còn gì để truyền dạy Thái Tử được nữa. Nay Thần cũng muốn gốp chút công sức truyền bá chút kinh nghiệm cả đời mình cho Thái Tử. Kinh Dương Vương nghe Quốc sư Thục Lục tâu thế thời lấy làm vui mừng vừa lòng lắm. Bằng giao Thái Tử cho Quốc sư dạy bảo.
**************


CHƯƠNG  6

PHẦN 2

CON TRỜI CÓ KHÁC

Chưa đầy một năm Quốc sư Thục Lục phải chịu hết tài để mà dạy, để mà truyền Thái Tử học một biết mười biết trăm, thường làm cho Quốc sư phải nhiều phen sửng sốt, Quốc sư nghỉ con Trời có khác.

Hôm nay là một ngày đẹp trời, nhìn cảnh vật muôn hoa đua nở, Quốc sư nhìn Thái Tử rồi nói. Năm cũ sắp qua năm mới lại về, thời gian chẳng chờ đợi ai cứ lặng lẽ trôi qua nhanh chóng, con người chẳng mấy chốc rồi già, cuộc đời sống gởi thát về, còn về đâu Thiên Đàng hay Địa Ngục thời chưa rõ. Thế mà lòng tham con người càng lúc càng bùng lớn lên, chúng có ý dồm ngó mãi nước ta, có cơ hội là xâm lược.

Quốc sư nhìn Thái Tử rồi hỏi. Khi nước mất nhà tan Thái Tử làm sao để giành lại. Thái Tử hết sức ngạc nhiên với câu hỏi kỳ lạ đó nhưng cũng trả lời. Quốc sư hỏi cho vui chứ làm gì có chuyện đó. Quốc sư nói Thái Tử thử nhìn xung quanh nước Xích Quỉ ta, các nước lân ban họ đang làm gì trước con mồi béo bở. Thái Tử đáp tuy đất nước Xích Quỉ ta là một đất nước giàu có, binh lực hùng mạnh nếu riêng lẻ từng nước thời không có đất nước nào đánh bại được ta. Nhưng nếu các Vương Quốc lân cận thống nhất với nhau thành một khối liên ban, thời nước Xích Quỉ chúng ta sẽ không đỡ nổi. Nhưng không bao giờ có chuyện đó xảy ra, nếu có xảy ra cũng phải hàng nghìn năm nữa và chỉ có một cách, cá lớn nuốt cá bé, các Vương Quốc thôn tính lẩn nhau, rồi trở thành Cường Quốc thời nước Xích Quỉ ta chính là con mồi béo bở cho chúng nuốt.

Quốc sư nhìn Thái Tử lập luận phân tích vô cùng thám phục nhưng có chổ chưa hiểu hỏi. Sao phải hàng nghìn năm tới các Vương Quốc mới liên minh nhau, sao không phải là hôm nay hoặc hàng chục năm tới? Thái Tử đáp, hiện nay trình độ dân trí còn quá lạc hậu, các Vương Quốc đang sống trong giáo điều và điều lệ, do Quốc Vương nước đó tự đặc ra để cai quản thống trị độc quyền chỉ còn cách là thôn tính lẩn nhau, mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé.

Không thể có chuyện các Vương Quốc liên minh với nhau, trở thành một thế lực Cường Quốc mà phải đến hàng nghìn năm nữa, trình độ dân trí lên cao, không phải sống theo giáo điều và điều lệ do Quốc Vương đặc ra để thống trị. Mà sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý. Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý Chân Chính không phải do Quốc Vương tự đặc ra mà do công bằng xã hội, tần lớp trí thức nhân sĩ soạn ra, được đúc kết tinh hoa nhân loại hàng nghìn nghìn năm.

Nhưng cũng có Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý trá hình do chế độ Độc Quyền lập ra nhưng không mấy hiệu quả vì tính bất công quá lớn. Vì vậy đối kháng của chúng ta trong tương lai vài mươi năm nữa, không phải đối kháng Cường Quốc liên minh mà là đối kháng Cường Quốc tàn bạo độc quyền, thôn tính đất nước ta bằng mọi thủ đoạn, gian manh và bạo lực.

Quốc sư với vẻ mặt sáng tỏ nói. Nếu bị chúng xâm lược thì ta phải làm sao? Thái Tử suy nghỉ rồi trả lời, với tình thế hiện nay, phương Bắc nước Xích Quỉ ta có nhiều Vương Quốc nhưng phải kể ba Vương Quốc đang lớn dần và hùng mạnh, đó là Vương Quốc Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh con cháu nhiều đời của Hi Đế Hiên Viên. Thái Tử nói. Muốn đối kháng hay đánh bại ngoại xâm việc lường trước là việc cần phải làm, phải nói làm thường xuyên nữa là khác, phải nói là đừng để mắc mưu chúng, nhất là mưu trong kế sách lâu dài, có thể cả hàng trăm năm sau. Rất khó cho chúng ta nhìn thấy danh và lợi là hai miếng mồi ngon để câu nhử ta, có thể tôn ta lên rồi hại ta, có thể nói trăm phương nghìn kế để hạ gục ta, vơ vét tài nguyên béo bở mà lâu nay những con Sói ngày đêm rình rập hể có cơ hội là xơi.

Trước hết chúng ta phải tìm hiểu rõ chúng là Cáo, là Sói, là Beo cho rõ. Nếu chúng là con quái vật vừa là Cáo, vừa lá Sói, vừa là Beo thời chúng ta mới có kế sách để đối kháng về lâu về dài. Biết người biết ta là nền tản cơ sở ưu khuyết của ta, ưu khuyết của địch, để rồi tìm ra kế sách đối kháng, định hướng chiến lược sách lược. Ánh sáng truyền thống luôn luôn sáng tỏ đến tận hang cùng ngỏ hẻm, một ý tưởng xấu nỗi dậy là phát hiện ngay, ánh sáng Chính Nghĩa Văn Hóa truyền thống được trao cho mỗi người dân, dù chỉ là một phần nhỏ, dân chúng cũng phát hiện ra âm mưu của giặc. Loại Chồn, Cáo, Beo, Sói ẩn núp bất chính.

Chúng ta chỉ sợ các thế lực ngoại xâm có nội ứng bên trong, còn thế lực không có nội gián bên trong nội ứng chỉ đường cho giặc, đó chỉ là xâm lược mưa rào không có gì đáng sợ. Nếu kẻ thù mạnh hơn ta về vũ lực, thời ta mạnh hơn họ về dân vận chính trị, toàn dân kháng chiến, chờ thời cơ, cướp lấy thời cơ tiêu diệt chúng, tính cách khôn khéo nhẩn nhịn, nhẩn nhục, nhẩn nại, có tam nhẩn chính là Mật Tạng của Hùng Bi Trí Dũng vượt qua bao chướng ngại khó khăn đưa đến thành công.

Nếu ánh sáng Chính Nghĩa đó chính là Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo dân tộc thời các thế lực ngoại xâm, xâm lược ấy coi như đã bước chân vào chỗ chết. Nếu ngoại xâm kẻ thù mạnh hơn ta về vũ lực cả chính trị lẩn nội ứng. Thời ta phải mạnh về truyền thống Ông Cha, phát huy tinh thần Quốc Đạo, quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, mỗi người dân là một anh hùng dân tộc. Hơn nữa tà không thắng được chánh. Sức mạnh Chính Nghĩa là sức mạnh bất tử vô địch, bản sắc dân tộc Văn Hóa Cội Nguồn, truyền thống Ông Cha, truyền thống vì non vì nước, toàn dân là chủ của đất nước, đồng tâm quét sạch quân thù, sức mạnh truyền thống dân tộc, sức mạnh Chính Nghĩa Nền Quốc Đạo, sức mạnh của lòng trung hiếu đối với Cha Ông đối vơi Non Sông Tổ Quốc. Dù cho họ có mạnh tới đâu cũng bị đánh bật ra khỏi đất nước, thất bại nhục nhã. Những thứ rác rưởi nhơ nhớp đã bị chúng ta quét sạch, đổ chúng xuống hố rác nhơ bẩn vì mùi hôi thối của chúng đến mấy nghìn năm vẫn chưa hết.

Quốc sư lại hỏi, thế lực ngoại xâm mạnh quá chúng đè bẹp chúng ta thời làm sao? Thái Tử đáp, nếu thế lực mạnh hơn ta gấp trăm nghìn lần, thế lực ngoại xâm là đá, còn thế lực của ta là trứng. Thái Tử nói nếu có trường hợp đó, chúng ta biến đất nước ta thành đất nước trống không, dân chúng sẽ được dời đến nơi hiểm địa, núi rừng hiểm trở tạo ra thế nước chảy đá mòn, chiến tranh du kích lâu dài, nung nấu thời cơ chờ đợi. Chúng ta thắng giặc phải thắng trên đất nước của họ, đánh Rắn phải đánh dập đầu, làm cho đất nước họ đảo lộn, tranh giành quyền lực với nhau dẩn đến thôn tính nhau lật đổ nhau, đó chính là thời cơ chúng ta quật khởi, từ thế lực của trứng, từ lâu ôm ấp Chính Nghĩa ôm ấp lòng yêu nước. Bổng chốc nở ra thế lực Đại Bàng, mang dòng máu anh hùng, nanh vuốt hận thù, bất khuất, quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, đồng loạt khởi nghĩa, chắc chắn phần thắng lợi sẽ thuộc về mình. Vì lúc ấy con Mãng Xà hung dữ đã mất đầu, sức mạnh của chúng đã cạn, đất nước của chúng đã đi vào hổn loạn. Thời cơ đã chín mùi, chính là lúc chúng ta quét sạch quân thù ra khỏi non sông Tổ Quốc.

Dân là nguồn tài nguyên vô giá của Quốc Gia, vì vậy ta phải chăm lo cho dân thật tốt. Dân là tường đồng vách sắt, ngăn cản và vùi dập quân thù xâm lược. Dân là Gươm Thiên sông núi, bảo vệ gìn giữ non sông Tổ Quốc. Dân chính là nguồn tạo ra sự giàu sang xã hội, đem lại sự hùng mạnh của một Quốc Gia dân tộc. Nói tốm lại Dân là nguồn tài nguyên vô giá của non sông Tổ Quốc, không có một thứ quí giá nào sánh kịp, kể cả vàng ngọc Kim Cương Trân Châu.

Một nguồn tài nguyên vô giá như vậy, nhà nước lại không biết quan tâm, ít quan tâm bỏ mặc dân chúng. Không những thế lại còn vơ vét bóc lột thậm tệ, nước cạn thời cá sống ở đâu. Nếu nói dân là nước còn Vương, Quan chính là cá, ao sâu béo cá, nước giàu dân mạnh thời cá yên, nước nghèo dân mạc thời cá cùng đường, Chồn, Cáo, Hổ, Báo ăn thịt sạch. Thắng không kêu, bại không nản, dù tạm thời bị nô lệ hoặc bị nô lệ nhưng bản sắc Văn Hóa Truyền Thống không mất, đó la thế mạnh của một dân tộc Hổ phục Rồng nằm, dân tộc bất khuất, từ thế bại sẽ chuyển thành thế thắng, sớm hay muộn mà thôi.

Xâm lược bạo lực không độc hại bằng xâm lược Văn Hóa, sở dĩ một dân tộc bị nô lệ hàng nghìn năm, chính dân tộc đó đã bị Văn Hóa ngoại xâm đè bẹp tinh thần dân tộc, ngóc đầu dậy không nổi, Văn Hóa ngoại xâm đã thống trị tinh thần dân tộc của họ, làm cho họ khiếp đến nổi phải tôn thờ Văn Hóa ngoại xâm nghe theo và làm theo.

Quốc sư lại hỏi, thưa Thái Tử, giặc ngoại xâm đã đuổi, giặc Tham Quan sanh ra làm hại dân hại nước thời làm cách nào? Thái Tử nghe Quốc sư hỏi thế thời lấy làm khó nghỉ mà cũng khó trả lời nhưng rồi Thái Tử cũng phải trả lời. Thắng giặc ngoại xâm đã khó nhưng biết cách thời không khó vì đó chỉ là thứ giặc ngoại xâm, còn giặc tham quan sanh ra từ nội tâm con người, nhất là sanh ra từ nội tâm của Vương, Quan thời khó mà dẹp cho được, vì chúng ẩn núp dưới bóng Chính Quyền lợi dụng sơ hở của Pháp Luật để làm bậy, đã là Vương, Quan làm bậy thời còn sợ ai nữa. Giặc tham Quan rất nhiều dạng nhưng động cơ sanh ra chúng, đó là Dục Vọng bất chính tà tâm, dựa trên tham lam mưu cầu danh lợi mà ra. Cũng bởi gì háo danh, háo lợi bất chính mà biết bao người phản Quốc, phản Tổ, phản Tiên, làm tổn hại Non Sông Tổ Quốc, tổn hại Đồng Bào dân tộc. Tội ác chi cũng dám làm, kể cả người thân của họ, tánh tham lam trục lợi bất chính khó ai mà diệt tận chúng nổi, vì chúng ẩn núp trong linh hồn con người. Linh Hồn con người luôn luôn bảo thủ bao che cho chúng, nhất là tần lớp Vương Quan hủ hóa lại còn bao che thói hư tật xấu hơn nữa.

Muốn có một xã hội công bằng văn minh ít tham quan, thời xã hội đó phải gieo trồng quả ngọt hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm, đi theo hai con đường, một là Văn Hóa Chính Nghĩa truyền thống, hai là thật sự lấy dân làm gốc, dân là chủ của đất nước, chủ của Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý, các cái quyền của dân phải được tôn trọng và bảo vệ, bất khả xâm phạm dù cho đó là Vương Quan. Tạo Hóa sinh ra đều bình đẳng và nhà nước chính quyền đại diện cho dân bảo vệ quyền bình đẳng ấy, đầy tớ trung thành của Hiến Pháp, Luật Pháp nhân quyền. Một đất nước bình đẳng, xã hội công bằng văn minh, Đế, Vương, Vua, Chúa không phải là tối cao trên hết mà là Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý trên hết, nhà nước pháp quyền do dân vì dân, vì công bằng xã hội, không phải vì bè phái, giáo phái, Đế, Vương, Vua, Chúa hay Chế Độ mà vì xã hội công bằng văn minh.

Mỗi người dân là mỗi dũng sĩ diệt gian, diệt thói hư tật xấu của chính mình và xã hội, phê bình và tự phê bình, tự mình xóa bỏ điều quấy, không ai thay thế xóa bỏ thói hư tật xấu cho mình, nếu không xóa bỏ thời tự mình hại mình không sớm thì muộn. Một đất nước công bằng văn minh là một đất nước có trình độ dân trí cao, giác ngộ Đạo Đức Chính Nghĩa lớn, làm chủ mình, làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc cho đến làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Bằng xã hội. Muốn có xã hội ít tham quan làm hại dân hại nước là đi trên con đường Bình Đẳng. Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng do dân vì dân vì Công Bằng xã hội vì cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Quốc sư hỏi, thưa Thái Tử từ xưa tới nay khắp các nước nhỏ lớn, dù xưng Đế, xưng Vương, xưng Vua, xưng Chúa thời cách cai quản đất nước na ná như nhau, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, giai cấp thống trị chính là Vương, Quan của đất nước đó, còn giài cấp bị trị chính là dân. Còn như Thái Tử nói trên Vương, Quan có Đạo Đức trị, Hiến Pháp trị, Luật Pháp trị, nhà nước chỉ là hiện thân của Công Lý, giai cấp Vương, Quan chỉ là đầy tớ trung thành, bảo vệ Hiến Pháp, Luật Pháp. Thi hành Hiến Pháp, Luật Pháp không thiên vị một ai, quan cũng như dân hể có tội liền bị xử như nhau, việc này có thể làm được sao? Hay chỉ là một giả thuyết mơ tưởng. Thái Tử nói không phải giả thuyết mơ tưởng đâu đó là xã hội Thần Thánh, xã hội Công Bằng văn minh nhân loại.

Thái Tử nói Đạo Đức trị, Hiến Pháp trị, Luật Pháp trị hay hơn điều lệ trị, giáo điều trị, chế độ trị. Chế độ trị thời nhà tù mở rộng ra, Đạo Đức trị thời nhà tù khép lại.

Thế nào là Đạo Đức trị.
Đạo Đức trị chính là dùng Đạo pháp Chính Nghĩa giáo dục con người, thay thế cho bạo lực đàn áp cai trị con người. Đao pháp Chính Nghĩa có ánh sáng Chính Nghĩa có công năng làm cho con người giác ngộ, thấy cái sai của mình, tự do, tự sửa chữa những hành vi thói hư tật xấu ấy, trình độ dân trí vì thế mà được nâng cao. Ánh sáng Chính Nghĩa có công năng ngăn chặn được vô lượng tội lỗi, do tà tâm sanh ra làm hại cho xã hội, cho non sông Tổ Quốc, ánh sáng Đạo Đức Chính Nghĩa thắp lên cả nước tận hang cùng ngỏ hẻm, soi đường cho nhân loại di, vừa xua đuổi tà ma và ác quỉ, làm hại Đồng Bào dân tộc.

Thế nào là Hiến Pháp trị.
Hiến Pháp trị chính là truyền thống dân tộc Văn Hóa Cội Nguồn, Văn Hóa ở đây không phải là Văn Hóa truyền thống Chế Độ mà là truyền thống lâu đời Chủ Nghĩa Dân Tộc, Chủ Nghĩa của sự công bằng văn minh, ánh sáng Văn Hóa truyền thống, có công năng soi sáng tinh thần yêu nước thương dân, đặc tinh thần trách nhiệm xã hội Tổ Quốc trên cá nhân của mình, làm giảm bớt đi tội lỗi làm hại xã hội, làm hại non sông Tổ Quốc. Muốn làm được như vậy phải có Nền Quốc Đạo ra đời, ánh sáng truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn luôn luôn được phát huy rộng mở, ánh sáng Hiến Pháp Văn Hóa truyền thống ấy phải do Chính Quyền các cấp tôn thờ và truyền đạt đến tận người dân cho dân hiểu dân làm dân kiểm tra.

Thế nào là Luật Pháp trị.
Luật pháp trị khác với Chế Độ trị, Luật Pháp trị dựa trên nguyên tắc Chính Nghĩa, bảo vệ công bằng xã hội, bảo vệ truyền thống, hiện thân Độc Lập, không lệ thuộc bất kỳ ai hay một Tổ Chức, Cơ quan nào. Hể có tội liền bị xử phạt, ngay cả người đang thi hành pháp luật. Ánh sáng pháp luật có công năng giữ vững kỷ cương đất nước, kỷ cương trật tự xã hội, ngăn chặn mọi hành vi tội lỗi của con người, làm hại xã hội làm hại non sông Tổ Quốc. Ánh sáng pháp luật phải đến tận tay mỗi người dân, dân làm chủ, dân phát hiện tham quan tội lỗi, dân có đủ quyền tố giác, đủ quyền yêu cầu nhà nước tri cứu hành sự đối với những tham quan làm hại xã hội, hại dân, hại nước ấy.

Vì vậy muốn có một đất nước hùng mạnh, Độc Lập giữ vững kéo dài, thời mỗi người dân là chủ của Hiến Pháp, Đạo Pháp, Luật Pháp thi hành công lý xã hội, công bằng văn minh, sống dưới Chế Độ thời công bằng xã hội chỉ là ảo tưởng. Còn Chế Độ thời còn đảo lộn xã hội, thay đổi truyền miên, những cuộc âm mưu Đảo Chính là điều không sao tránh khỏi, lâu hay mau mà thôi.

Một nhà nước chuyên quyền thời sống theo khuôn khổ Chế Độ.

Một nhà nước pháp quyền thời sống theo Đạo pháp dân tộc, Hiến pháp dân tộc, Luật pháp dân tộc. Vương, Quan, Chính, Quyền là đầy tớ trung thành cho Đạo pháp dân tộc, Hiến pháp dân tộc, Luật pháp dân tộc, sống trong xã hội công bằng văn minh. Nên non sông Tổ Quốc Độc Lập lâu dài, không có sự âm mưu lật đổ Chính Quyền mà chỉ có sự thừa kế Chính Quyền đi trước, thắp sáng Đạo pháp dân tộc, Hiến pháp truyền thống Cội Nguồn dân tộc, Luật pháp dân tộc nối tiếp đời đời cho đến tận mai sau.

Quốc sư Thục Lục càng nghe Thái Tử nói tưởng như mình đang sống trong xã hội Thiên Đàng, Quyền sống, Quyền tự do, Quyền bình đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhân quyền được bảo vệ tôn trọng mà hiện nay không một đất nước nào, Vương Quốc nào có. Có phải đây chính là Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng được nghe trong truyền thuyết nhân gian kể, xã hội Thần Thánh. Một xã hội có danh có lợi nhưng danh lợi ấy được Luật pháp công nhận, Đạo Đức cho phép, đó là Chánh Danh, Chánh Lợi. Còn những thứ danh, lợi bất chính đi ngược lại Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp đó là Tà Danh và Ác Lợi. Tà Danh và Ác Lợi luôn luôn tồn tại trong các Chế Độ xã hội chuyên quyền Độc quyền. Không tồn tại trong Chủ Nghĩa xã hội công bằng văn minh. Xã hội nhà nước pháp quyền, Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp trên hết.
**************


CHƯƠNG 6

PHẦN 3

ĐỜI SỐNG KHOA HỌC

Quốc sư Thục Lục hỏi. Giặc ngoại xâm đã trừ, giặc tệ nạn xã hội đã diệt nhưng dân chúng thời nghèo đói, ốm đau bệnh tật, thời ta phải làm sao đẩy lùi chúng?

Lại thêm một sự ngạc nhiên nữa đối với Thái Tử, với lối hỏi hóc búa của Quốc sư. Thái Tử nói, thưa Quốc sư đây là câu hỏi khó, không dễ gì trả lời được. Quốc sư mỉm cười nếu khó quá thời thôi vậy. Thái Tử nói, đây là câu hỏi khó, phạm vi rộng lớn, không dễ gì trả lời cho hết được, từ một xã hội vô cùng lạc hậu, trình độ dân trí kém, lại bị dưới quyền thống trị của Chế Độ phong kiến, như nước Xích Quỉ ta đây còn khá, còn thống trị theo kiểu độc trị cai ngục thời miển bàn tới.

Thái Tử nói, Lạc Hậu, Đói Nghèo, bịnh tật là một thứ giặc, thứ giặc này khó đánh đuổi chúng ra khỏi đời sống con người, phải nói là quá khó. Muốn đánh đuổi chúng, phải có hai đội quân chủ lực.
1: Là đội quân trí thức khoa học.
2: Là đội quân máy móc khoa học.

Nền văn minh Địa Tiên ra đời phải có một sự cải cách xã hội lớn lao, không phải ai cũng làm được. Nhất là thời kỳ ngày nay thời kỳ sơ khai ở các Cường Quốc hùng mạnh như chúng ta cũng chỉ ở giai đoạn sơ khai, hình thành Chế Độ Quân Chủ Lập Hiến, còn ở các Vương Quốc khác thời lạc hậu còn xa lắm, nếu họ theo kịp ta phải mấy trăm năm nữa, con đường giải thoát đói nghèo, ốm đau, lạc hậu không còn con đường nào khác hơn là con đường tiến tới làm chủ khoa học, làm chủ thiên nhiên, từng bước từng bước phát minh sáng kiến khoa học trong thế giới vật chất. Lần mò hiểu chúng, kết cấu chúng, làm chủ chúng, áp dụng chúng, biến hóa chúng thành những thứ mình cần, đa dạng hóa công cụ, sản phẩm, khoa học kỷ thuật, khoa học kiến tạo, khoa học chế tạo luôn luôn bổ sung chỉnh sửa, tiến tới mỗi ngày mỗi hoàn hảo. Liên kết Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tạo ra sức mạnh của con người phục vụ cho xã hội, nhất là khám phá cho hết công dụng của thể hơi, thể lỏng, thể đặc thời chế tạo ra máy móc mới có hiệu quả cao, tiến xa hơn nữa là khám phá công dụng của thể lực vũ trụ, mẹ đẻ của thế giới vật chất.

Xưa kia con người ở thời Hồng Đế đào đất, đốn cây bằng cuốc đá, rìu đá, lấy lửa chỉ dựa vào sấm sét. Nhưng hôm nay con người đã biết đào đất, đốn cây, lấy lửa khác xa hoàn toàn như nước Xích Quỉ của chúng ta đây, đào đất, chặt cây bằng cuốc đồng cuốc thau, rìu đồng rìu thau, lấy lửa không cần chờ sấm sét mà dùng đá cứng ma sát mạnh vào nhau để lấy lửa, còn các bộ lạc lạc hậu thời chưa có trình độ ở mức này, chỉ có ở các Vương Quốc hùng mạnh mà thôi.

Ở thời Hồng Đế con người chỉ biết hái, lượm để sống, săn thú, cầm, bò sát để tồn tại, lấy da che ấm nhưng hôm nay nước Xích Quỉ ta đã biết trồng trọt, chăn nuôi để sống, hái lượm săn Thú, Cầm, bò sát chỉ là phụ thuộc mà thôi, che ấm bằng tơ tằm dệt vãi. Thời đại ở hang, ở động đã qua, thời đại ở nhà, ở lều thịnh hành và đang tiến tới cảnh lầu đài cung điện.

Thế giới ấm no hạnh phúc giàu sang không ở đâu xa mà ở ngay trước mắt, chúng ta muốn có ấm no hạnh phúc lâu dài thời ít lệ thuộc vào Thiên Nhiên như thời Hồng Đế lấy lửa nhờ sấm sét. Thờ Lửa. Còn thời nay ta là chủ nhân của lửa, muốn có lửa là có lửa, chúng ta muốn có xã hội ấm no hạnh phúc thời chúng ta là Đấng Tạo Hóa thứ hai, kế theo thừa kế Tạo Hóa Tổ Tiên. Tổ Tiên tạo lập vũ trụ, thế giới vật chất, còn ta tạo lập cuộc sống, cấu kết vật chất kiến tạo lên cuộc sống ấm no, xây dựng xã hội Thiên Đàng Cực Lạc. Để làm được thế chúng ta cần hiểu rõ căn Cội của thế giới vật chất, công dụng công năng của chúng làm chủ chúng, như ta làm chủ tìm lấy lửa, biến cái chung mà chúng ta cần dùng.

Như thời ông Cha ta VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG. VIÊM ĐẾ SÙNG LÃM với nền văn minh lúa nước, văn minh hội họa giao tiếp, làm thông điệp xã giao, ngoại giao. Chúng ta muốn giải trừ đói nghèo, lạc hậu, bệnh tật thời chúng ta phải giải trừ sự ngu dốt, tiến tới làm chủ khoa học kỷ thuật, tiến tới làm chủ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp, làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc, sống trong xã hội công bằng văn minh, mang tính cách phục vụ cao.

Nhà nước phải có chính sách thông thoáng, không gò bó sự phát triển, cá nhân tập thể ưu đãi người có tài, ưu đãi sở hửu trí tuệ, khuyến khích phát minh bảo vệ giúp đỡ họ. Nắm bắt thời cơ hội nhập kinh tế, làm trung gian Cung Cầu, cho mọi tầng lớp phát triển. Dân phát triển theo kiếu khả năng của dân, nhà nước phát triển theo kiểu qui mô của nhà nước, những cái mà dân không đủ sức làm được. Như khai thác quản lý tài nguyên Quốc Gia, xuất nhập dung hòa sản phẩm, khai mở huyết mạch giao thông, trọng yếu Đường biển, Đường sông, Đường bộ, Liên thôn, Liên xã, Liên Quận, Liên Huyện, Liên Châu, Liên Bộ, Liên Miền thông thương dọc ngan như bàn cở, biển thông lên núi.

Chính sách ngoại giao, giáo dục được coi như đưa lên hàng đầu. Quan quyền thời bình, thời trở thành các nhà kinh tế lảnh đạo khoa học kỷ thuật, lảnh đạo ngoại giao, làm mối giềng chổ tựa cho các thế lực trong nước, ngoài nước trao đổi kinh tế. Bảo vệ tốt, trọng tài tốt. Nhà nước, nhân dân, các thế lực kinh tế đồng có lợi. Một nhà nước không sợ các thế lực, Quân sự, kinh tế, chính trị lật đổ, là một nhà nước pháp quyền, có nền Quốc Đạo vững chắc. Truyền thống dân tộc vững vàng, như dãy núi cao mà các thế lực với không tới, vược qua không nổi.

Với tài nguyên phong phú của từng vùng, từng quốc gia, từng đất nước. Gạo đổi lấy muối, cá đổi lấy ngô. Vải bô đổi lấy Voi Ngựa. Nhờ trao đổi sản phẩm, kiến thức khoa học nhờ đó mà tăng lên rất nhanh.

Tôn trọng quyền phát minh, sáng kiến của mỗi người dân. Luật pháp bảo vệ họ, nhà nước khen thưởng họ, giúp đở họ. Coi họ như là chiến sĩ có công với xả hội. Đó chính là phát huy tìm năng nội lực quí báu của dân tộc. Nội lực tri thức khoa học. Nhờ nội lực tri thức nầy, đưa đất nước tới xóa đói giảm nghèo. Đẩy lùi lạc hậu. Tôm gốp tinh hoa phát minh sáng kiến, khoa học nhân loại. Truyền bá rộng rãi trong đời sống con người. Đó là thế mạnh đưa đất nước tiến lên văn minh hiện đại. Khuyến khích dân làm giàu, thời nhà nước phải hổ trợ sự phát triển đa năng của dân. Làm trọng tài cho sân chơi cạnh tranh bình đẳng. Có làm được như vậy thời đời sống ấm no hạnh phúc sẽ đến với xã hội con người. Đời sống thăng hoa giải trừ lạc hậu nghèo đói khốn khổ.

Quốc Sư Thục Lục càng nghe Thái Tử giải trình. Không những giải đáp mọi thắc mắt xưa nay của mình. Mà còn làm cho mình thấy được chân trời mới. Chân trời của sự giãi thoát đói nghèo, lạc hậu.

Thái Tử tuy còn nhỏ. Nhưng có tầm nhìn rộng lớn, Của bật đại giác ngộ. Hiểu rõ sự tồn vong, cuộc sống đi lên xã hội. Và thật vậy con người đứng vững được là nhờ bộ xương.  Tổ Quốc đứng vững mãi là nhờ rường cột, cốt lõi của truyền thống. Dân giàu nước mạnh là nhờ đường lối thông thoáng. Làm chổ dựa vững chắc cho dân phát triển. Việc dân nghèo dân đói, chỉ có dân vươn lên mới giải quyết được.

Quốc Sư lại hỏi: Muốn độc lập kéo dài, ngoài từ bỏ con đường gia đình trị. Chế độ độc trị, phong kiến thống trị, tiến tới xã hội công bằng bình đẳng. Chỉ có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp truyền thống của dân tộc là tối cao. Còn Vương, quan chỉ là đầy tớ trung thành của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp dân tộc. Bảo vệ và triệt để thi hành Hiến Pháp - Luật Pháp - Đạo Pháp dân tộc, giữ vững cán cân Công lý, Công bằng Xã Hội. Lấy Đạo trị dân, lấy Đức trị dân, lấy Công Bằng Xã Hội trị dân. Làm cho dân thấm nhuần truyền thống, thấm nhuần Đạo Đức, thấm nhuần Hiến Pháp - Luật Pháp. Đặc quyền lợi xã hội trên quyền lợi cá nhân. Sống vì Tổ Quốc, sống vì Đồng Bào nhân loại anh em. Cái chung là thể xác, cái riêng là tế bào, tế bào chết thời thể xác tan rã cũng chẳng còn, ngoài những sự kể trên còn có thêm điều gì nữa không?

Thái Tử đáp: Quốc sư hiểu như thế là quá đủ lắm rồi nhưng có một vài điều làm sáng tỏ thêm.
**************


CHƯƠNG 6

PHẦN 4

CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG

Thái Tử nói: Đạo pháp truyền thống Dân Tộc. Hiến pháp Chủ Nghĩa dân tộc. Luật pháp Bình Đẳng công bằng dân tộc là cái chung của toàn xã hội, không phải của riêng ai, cá nhân hay một tập thể nào, thuộc về Quốc Bảo dân tộc cũng như Non Sông Tổ Quốc, không của riêng ai là Tổ Quốc chung của toàn dân. Chính quyền do dân bầu ra, không phải là để đàn áp cai trị dân mà là đại diện cho dân nắm vững cán cân công lý, thực thi công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi riêng của mỗi người. Quyền lợi chính đáng mà Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp cho phép.

Ở các thời phong kiến, phong kiến Thần giáo, phong kiến Địa Chủ, phong kiến Chế Độ. Dân có cái riêng nhưng không có cái quyền vì non sông Tổ Quốc, là của trẩm, thiên hạ Đồng Bào là của trẩm, tất cả đều là của trẩm. Thử hỏi Đồng Bào nhân dân có cái gì là quyền riêng của mình đâu, vì tất cả là của Vương, của Vua, của Chúa đương thời, Vua muốn cho là cho, muốn lấy là lấy. Thậm chí Quyền sống, Quyền được sống, Quyền ngôn luận, Quyền tự do, Quyền bình đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc, làm gì được có những thứ Quyền ấy, mà sống trong sự thống trị của Chế Độ Điều Lệ do Vương, Vua phê duyệt ban ra theo ý Vương, Vua. May mắn Vương, Vua có chút Đạo Đức nhân tính thời còn dễ thở. Bằng Hôn Quân, Vương, Vua vô Đạo thời dân chúng vô cùng khốn khổ, phải nói sống như một đầy tớ nô lệ mà thôi, Vua biểu chết là chết, Vua biểu sống là sống vận mệnh của mỗi người dân đều nằm trong tay của Đế, Vương, Vua, Chúa đương thời, thử hỏi dân có cái quyền gì nói chi đến chuyện làm chủ. Đã không có quyền, thời không được làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc, người dân sống dưới các thời phong kiến, họ mất cả sở hửu cái chung, cũng như sở hửu cái riêng, sống như một đầy tớ nô lệ, họ không có cái quyền chi cả, họ không bao giờ được làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc mà ngay cả bản thân cũng không làm chủ được nói gì đến quyền sở hửu tư riêng, quyền sở hửu chung.

Tạo Hóa Tổ Tiên khi khai tạo ra loài người thời cũng đã ban cho mỗi con người nhiểu thứ quyền, trong đó có Quyền sống, Quyền được sống, Quyền làm chủ, Quyền tự do, Quyền bình đẳng, Quyền ngôn luận, Quyền mưu cầu hạnh phúc, những thứ Quyền ấy dưới các triều đại phong kiến đã bị người ta nhốt đi, cướp lấy đi, không cho người dân có những thứ quyền ấy. Đây là một thiệt thòi vô cùng lớn lao cho những người được sinh ra và lớn lên trong xã hội. Vì vậy các triều đại phong kiến chưa nắm rõ và hiểu rõ Thiên Luật, Thiên Tạng vũ trụ, chưa hiệp theo Thiên Mệnh, vì thế sẽ dần dần loại bỏ, một khi xã hội phát triển tiến lên đến xã hội công bằng văn minh, một xã hội mà người dân có cả sở hửu cái chung mà cũng có cả sở hửu cái riêng.
**************


CHƯƠNG 6

PHẦN 5

XÃ HỘI CÔNG BẰNG VĂN MINH

Xã hội Công Bằng văn minh là xã hội mỗi người dân, có cả sở hữu cái chung và cũng có cả sở hữu cái riêng, thuận theo Thiên Luật vũ trụ, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc, cho đến làm chủ Đạo Pháp xã hội, Hiến Pháp xã hội, Luật pháp xã hội. Xã hội Công Bằng văn minh là xã hội cái chung và cái riêng không tách rời nhau, như tế bào và con người, con người và tế bào, tế bào tồn tại là con người tồn tại, tế bào hỹ hoại con người theo đó cũng đi đời, bảo vệ con người cũng chính là bảo vệ tế bào, bảo vệ tế bào cũng chính là bảo vệ con người.

Con người bảo vệ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp chung. Bảo vệ cái chung có nghĩa là bảo vệ xã hội, bảo vệ non sông Tổ Quốc, bảo vệ Đạo pháp, Luật pháp, Hiến pháp là tự bảo vệ mình. Vì Đạo pháp xã hội Công Bằng, Hiến pháp xã hội Công Bằng, Luật pháp xã hội Công Bằng. Là công cụ bảo vệ cho mỗi con người được thế hiện đầy đủ các quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho họ. Con người là tế bào tạo ra sự sống xã hội. Xã hội là lẽ sống của con người, lẽ sống tồn vong hạnh phúc của con người.

Xã hội Công Bằng văn minh là xã hội Đại Đồng. Không có sự thống trị của Chế Độ mà chỉ sống theo Đạo pháp truyền thống dân tộc, Hiến pháp nhân quyền, Luật pháp bình đẳng. Giai cấp Vương, Quan chính quyền chỉ là giai cấp đầy tớ trung thành của Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp mà thôi. Tiến lên thế giới Đại Đồng cũng có nghĩa là tiến sâu vào Đạo pháp công ước Quốc Tế làm sáng tỏ Đạo Luật nhân quyền, bảo vệ tôn trọng nhân quyền. Cái quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho mỗi con người mà bất cứ là ai cũng không có quyền cướp đoạt xâm phạm. Những kẻ tự cho mình mới có đầy đủ các quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho họ, còn người khác thì không. Nên mới có tư tưởng thống trị Thiên Hạ, đây là một điều sai lầm lớn dẫn đến xung đột tàn sát lẩn nhau. Kết quả đều lưỡng bại câu thương không có kết quả tốt, đưa nhau xuống Địa Ngục.Thái Tử nói. Muốn cho dân giàu nước mạnh, Công Bằng văn minh, Độc Lập lâu dài chỉ có con đường Thuận Thiên, đảm bảo nhân quyền cho mỗi con người mỗi Quốc Gia dân tộc. Chúng ta có cái chung là toàn cầu, bảo vệ cái chung toàn cầu, cũng có nghĩa là bảo vệ sự sống của chúng ta, sự sống tự do nhân quyền của chúng ta, bất khả xâm phạm. Con đường tiến về Cội Nguồn, lấy Đạo pháp truyền thống Chính Nghĩa dạy dân làm món ăn tinh thần trong đời sống hằng ngày, nuôi lớn trình độ dân trí, thế hệ trước, thế hệ sau cùng đi chung một con đường truyền thống như vậy. Thời non sông Tổ Quốc Độc Lập kéo dài là đều tất nhiên.

Thái Tử nói một đất nước phồn thịnh văn minh, Độc Lập lâu dài, thời đất nước đó phải có nền Văn Hóa Thể Dục, Thể Thao, Ca nhạc, Văn nghệ phong phú, võ thuật phát huy rèn luyện thân thể, đẩy lùi bệnh tật. Không có hạnh phúc nào hơn là tinh thần sáng suốt minh mẩn, trong thể xác khỏe mạnh. Văn Hóa nghệ thuật, võ nghệ, Thể Dục, Thể Thao, ca nhạc, văn nghệ, không những làm cho tinh thần sản khoái yêu đời tuổi thọ nâng cao mà còn đẩy lùi được bệnh tật, đưa nhân loại xích lại gần nhau hiểu nhau làm bạn, quan hệ giao lưu cùng nhau đôi bên cùng có lợi.

Vị Quốc sư càng nghe Thái Tử vẽ lên một thế giới tương lai kỳ lạ, có thể nói là quá xa xăm, nhưng tất cả đều là hiện thực, không phải là ảo tưởng. Hôm nay tuy làm chưa được nhưng Quốc sư tin tưởng ở tương lai, đất nước mới, thế hệ mới do Thái Tử lập lên nước Văn Lang thế hệ Văn Lang sau này.
**************


CHƯƠNG 7

PHẦN 1

CẢI CÁCH ĐỔI MỚI HƯỚNG ĐI

Quốc sư hỏi, thưa Thái Tử, theo tình thế hiện nay, các Vương Quốc ở cận ta đang bành trướng dữ dội và hầu như chúng có âm mưu dòm ngó đất nước ta, Thái Tử có mưu tính gì, kế sách gì đối phó chúng, hoặc gồm thâu chúng mở rộng đất nước ta chăng, thực hiện theo ý tưởng của Thái Tử?

Thái Tử đáp, có mưu tính, dự tính mở rộng phạm vi nước Xích Quỉ ta, gồm thâu Thiên Hạ nhưng không phải ở thế xâm lược mà ở thế Liên Minh. Nếu ở thế xâm lược như xưa nay các Vương Quốc đã từng làm, thắng là Vua thua là giặc, thắng thống trị, thua bị trị, kẻ theo ta thời sống, người chống ta thời chết. Đó là hạ sách ở thế Tà xâm lược thời không ổn. Chưa nói đến các thế lực Quốc Vương mà ngay cả hàng chục Bộ Lạc, sống rãi rác ở khắp nơi, dân tộc nào cũng có khí phách anh hùng, thậm chí có nhiều Bộ Tộc vốn yếu hơn các Bộ Lạc nhưng lòng bất khuất thà chết chứ không chịu đầu hàng làm nô lệ. Liều mạng bảo vệ Tổ Quốc của họ.

Trước đây ông Cha ta mở mang đất đai bờ cõi, theo kiểu du canh du cư, vì thời đó là thời hoang vu con người chưa được khai hóa. Không thuộc quyền sở hửu của dân tộc nào, Bộ Lạc nào, Bộ Tộc nào. Nhân loại còn trên đường Du Canh, Du Cư tuy có người tới trước khai phá nhưng lại bỏ đi nơi khác, ý thức làm chủ đất đai chưa mấy, nhưng hôm nay con người đã có ý thức làm chủ đất đai, dẫn đến tranh giành thuộc địa, mở mang cho phong kiến Địa Chủ ra đời, sự tranh giành đất đai càng ngày càng lớn, theo đó thời sự tàn bạo mỗi ngày một thêm dữ dội, oán thù cứ thế mà chồng chất lên nhau, cảnh cá lớn nuốt cá bé, chẳng khác nào Gà nuốt Dế, Chồn nuốt Gà, người ta săn Chồn xơi thịt.

Nếu chúng ta dùng bạo lực xâm chiếm đất đai đàn áp họ, bắt họ tùng phục mình, dù đó là ý tưởng tốt nhưng không gọi đó là chính đáng được mà ta đang ở thế tà vì ta là kẻ xâm lược, Độc Lập khó mà được lâu dài. Vì thế yếu họ quy thuận ta nhưng lòng căm hờn của họ đối với ta to như biển cao như núi, nhưng ở hậu lai họ chờ thế lực ta suy yếu, hay nội bộ chia rẽ lủng cũng. Thời nổi lên chống phá lật đổ. Nếu chúng ta xâm lược tàn sát hết họ, thời chúng ta nào phải con người, còn ác hơn loài Quỉ dữ, nếu nhân từ để chúng sống sót, thời chúng ta tự nuôi tai họa về sau, chẳng khác nào chúng ta mài đao để đó chờ ngày giết mình, nội giặc là một thứ giặc khó trừ, khó đề phòng, khó lường. Nếu chính sách thông thoáng thời vô tình nuôi các thế lực phản động nhanh lớn, còn chính sách, giáo điều, điều lệ hà khắc, cấm đón không những không phát triển được xã hội, đời sống khốn khổ, nổi giặc khắp nơi thời Độc Lập kéo dài được sao. Tổ Quốc non sông dù có lớn đến đâu, dân có đông đến đâu, cũng chỉ là bãi chiến trường, tranh giành quyền lực lật đổ nhau, chém giết nhau mà thôi. Chiếm đoạt đất đai thiên hạ lập lên cường quốc, chiếm hửu nô lệ lập lên xã hội, thống trị cường hào ác bá, trước mắt là có nhưng sau đó thời như không, vì dùng bạo lực chiếm Thiên Hạ nhưng không được lòng Thiên Hạ, đó là mối tai họa lật đổ đảo chính về sau. Một lớp vỏ bạo lực bó buột Thiên Hạ về một mối, khác nào quả pháo chờ cơ hội là nổ, có Thiên Hạ trong tay nhưng lòng Thiên Hạ đã mất, Thái Bình Độc Lập ắt chẳng đặng bao lâu, non sông Tổ Quốc sẽ đổi ngôi thay chủ. Lập lên một Cường Quốc với bao tìm ẩn nguy cơ, thời lập lên để mà làm gì. Mở màng cho hàng loạt tham quan ra đời làm lên bao chuyện xấu xa tội lỗi. Đục khoét của nhà nước, vơ vét của dân tệ nạn xã hội khắp nơi.

Cơ nghiệp lập lên bằng bạo lực, không chân chính, rốt cuộc rồi cũng bị các thế lực phản loạn, từ trong giai cấp bị trị, giai cấp nô lệ nổi lên đánh bại. Cả đời cực khổ vì chiến tranh nhưng rốt cuộc được những gì, mang tiếng ác về sau. Quốc Vương chỉ là con Cáo già tham lam tàn bạo, có hay ho gì, không khéo xuống Địa Ngục nửa đằng khác.

Thái Tử nói, chỉ có chinh phục Thiên Hạ, liên minh các Họ Tộc, Bộ Tộc, Bộ Lạc thành một khối, lập lên một đất nước rộng lớn bình đẳng cũng có quyền, quyền sở hửu cá nhân, quyền sở hửu tập thể được thể hiện đầy đủ, và chính mỗi người dân không những thể hiện đầy đủ các quyền mà còn làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc, làm chủ Đạo pháp truyền thống Dân Tộc, làm chủ Hiến Pháp, Luật pháp xã hội. Mà chỉ có Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp mới thật sự là tối cao. Còn Vương, Quan chỉ là đầy tớ trung thành của Đạo pháp truyền thống xã hội, Hiến pháp, Luật pháp xã hội. Bảo vệ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp. Thi hành Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp, thực thi Công Lý Bình Đẳng, bảo vệ ích lợi chung, cũng như ích lợi riêng của mỗi người dân. Xã hội Công Bằng văn minh, xã hội Thần Thánh. Quốc sư Thục Lục càng lúc càng sáng mắt ra, nghỉ có thể Thái Tử sẽ làm nên nghiệp lớn và cũng chỉ có bật Đại giác ngộ mới tìm ra hướng đi Thần Thánh nầy.
(Và thật vậy 79 năm dựng nước Văn Lang 2.622 năm thế hệ con cháu của Vương, Quan kế tục giữ nước, xây dựng lên mỗi ngày mỗi thêm phồn thịnh. Cả dựng nước và giữ nước thời Hùng Vương là 2.701 năm, trên khắp thế giới thời đó cũng như thời nay chưa có đất nước nào kéo dài Độc Lập dài đến thế).

Đây nói về vị Quốc sư tài năng Thục Lục, tự biết mình không còn đủ tài để dạy Thái Tử nữa nên nói với Thái Tử rằng. Khắp nước Xích Quỉ này không còn ai là đủ tài dạy Thái Tử nữa, và thật vậy thật ra tôi cũng chỉ là học trò của Thái Tử mà thôi, vì Thái Tử không phải người phàm hay Thánh Thần Đầu Thai mà là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai. Đấng Cứu Thế. Nghe Thái Tử thuyết giáo tôi đã ngộ ra một điều, con người có quả tim Nhân Loại, mới có đủ khả năng diều dắc Nhân Loại mà thôi. Còn quả tim vì quyền lực vì danh lợi vì cái riêng ta quá lớn, thời khó mà dìu dắc nhân loại đến bờ hạnh phúc. Cũng từ đây tên tuổi Thái Tử vang lừng hơn nữa, làm chấn động nước Xích Quỉ cùng các nước lân cận. Kinh Dương Vương tuy tuổi đã cao nhưng Tiên phong Đạo Cốt vẩn trẻ trung uy nghi. Nay nghe Quốc sư luôn luôn miệng khen Thái Tử, đề cao tột bực, thời lấy làm vui vẻ sung sướng không gì bằng, cuộc đời Đế Vương coi như là thỏa mãn.

PHẦN THƯA HỎI

Hỏi: Thế nào là Họa, Phúc của xã hội?

Đáp: Con người là chủ của xã hội vì vậy họa hay phúc đều do con người, xã hội Thiên Đàng hay xã hội Địa Ngục, điều do con người quyết định. Nếu chúng ta biết hướng Thiện, kết tụ duyên lành, truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn, Đạo pháp truyền thống dân tộc, Hiến pháp Công Lý xã hội. Luật pháp xã hội nuôi dưỡng tinh thần Đạo Đức dân tộc, đến tận mỗi người dân, nân cao trình độ nhân thức Đạo Đức xã hội. Thời tương lai xã hội chúng ta mới có kết quả tốt đẹp, xã hội Chân Thiện Hoàng Mỹ. Còn nếu chúng ta tán tận lương tâm làm lên bao điều tội lỗi, xem thường Đạo pháp truyền thống xã hội Hiến pháp, Luật pháp xã hội. Phá hoại kỷ cương phép nước nhận giặc làm Cha. Thời chúng ta tự tạo ra cho xã hội chúng ta một xã hội đen tối, xã hội nhà tù, xã hội Địa Ngục. Sống chẳng yên mà chết cũng chẳng đặng yên.

Hỏi: Thế nào là nhận thức Bình Đẳng.

Đáp: Đến với Cội Nguồn, hòa mình vào dòng đời xã hội, tuân theo và lam theo Đạo pháp truyền thống dân tộc, Hiến pháp, Luật pháp xã hội thời nhận thức được ngay sự Bình Đẳng con người và sự Bình Đẳng xã hội. Nhân Loại ai ai cũng như nhau, từ một gốc mà ra, tất cả đều là Con Rồng Cháu Tiên, mỗi Tiểu Linh Hồn từ Đại Linh Hồn vũ trụ tạo ra, ví như nước sanh ra bọt nước, tất cả bọt nước đều Bình Đẳng vì tất cả bọt nước từ nước mà ra. Xã hội Bình Đẳng là xã hội Đạo pháp công bằng, Hiến pháp công bằng, Luật pháp công bằng, quả tim Công Lý xã hội, không thiên vị ai, không thân cận ai, chung cùng một nhịp đập Bình Đẳng, vì vậy quyền Bình Đẳng, nhân quyền của con người được bảo vệ, tôn trọng thể hiện đầy đủ, bất khả xâm phạm. Nếu xâm phạm là trái ý trời. Đối với kẻ chuyên quyền Độc quyền tàn bạo, thời coi như chính họ đã đánh mất nhân quyền Bình Đẳng của chính họ sẽ bị Cộng Đồng xã hội nhân quyền lên án.

Hỏi: Thế nào là quan hệ tôn trọng Chủ Quyền Độc Lập?

Đáp: Không xâm phạm lẩn nhau về thuộc Địa cũng như về chính trị, đối đãi nhau trên phương diện Bình Đẳng, tôn trọng lẩn nhau, làm bạn đối tác kinh tế hai bên cùng có lợi. Tôn trọng bạn có nghĩa là tôn trọng mình, xâm phạm chủ quyền nước bạn là tự đánh đổ chủ quyền nước mình.




Hỏi: Sao gọi là Khôn? Sao gọi là Dại?

Đáp: Người khôn không bao giờ nghịch lại Thiên ý của Trời, không bao giờ chống phá Đạo pháp truyền thống dân tộc, chống phá Hiến pháp, Luật pháp công bằng xa hội, vì chống phá như vậy nhất định sẽ sa chân vào ác Đạo, Quỉ Đạo, súc sanh Đạo, Địa Ngục Đạo, thời coi như đã sa vào Thiên La Địa Võng trùng trùng tai họa. Những kẻ tự cho mình siêu đẳng nhưng lạc mất Cội Nguồn, khác nào con thơ Lạc Mẹ Lạc Cha, chơi vơi giữa chốn hồng trần lặng hụp trong bùn nhơ cặn bả xã hội.

Hỏi: Hiến pháp có mấy loại?

Đáp: Hiến pháp xã hội có nhiều loại nhưng có ba thứ Hiến pháp được thông dụng ở đời.
1: Là Hiến pháp dựa trên quân Chủ lập Hiến tạo ra.
2: La Hiến pháp dựa trên Dân Chủ lập Hiến tạo lập ra.
3: Là Hiến pháp căn cứ theo Văn Hóa Cội Nguồn truyền thống dân tộc. Nhân quyền Bình Đẳng. Công ước xã hội. Chủ quyền Độc Lập. Hiến pháp dựng nước và giữ nước nhà nước Văn Lang. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Một Hiến pháp mà không một đất nước nào có, ngay cả thời văn minh hiện đại bây giờ. Hiến pháp của Đại Đồng Công Bằng Bình Đẳng. Tình nòi giống, nghĩa Đồng Bào chung nhau một Cộng Đồng xã hội. 
**************


CHƯƠNG 7

PHẦN 2

NỖI LO XA KINH DƯƠNG VƯƠNG.

Một hôm Kinh Dương Vương cùng con trai là Thái Tử Hùng Lan dạo chơi nơi chốn hoa viên, để thử tài Thái Tử cũng như xem con có ý niệm gì tương lai non sông Tổ Quốc khi tình hình mỗi ngày mỗi thêm phức tạp diễn biến xấu.

KINH DƯƠNG VƯƠNG hỏi? Này con. Con nhận xét thế nào về nước Xích Quỉ ta, mạnh yếu ra sao? Có phải là một đất nước Hùng Mạnh, rộng lớn, có đất nước nào hơn đất nước ta không? Cha muốn nghe ý kiến nhận xét của con.

Thái Tử thưa Cha. Nước Xích Quỉ ta vốn nổi tiếng từ lâu. Một đất nước vừa giàu có vừa hùng mạnh, không có một Vương Quốc nào xa gần sánh kịp. Với nền văn minh lúa nước, văn minh thông Điệp Hội Họa. Đất đai rộng lớn màu mở phì nhiêu, dân đã đông, tướng đã giỏi, lại thêm ấm no Thịnh Trị hàng nghìn nghìn năm. Nước Xích Quỉ ta không những mạnh về tinh thần mà còn mạnh về vật chất. Hiện nay và trăm năm tới, chưa có đất nước nào hơn được đất nước ta đâu. Tuy rằng xung quanh nước Xích Quỉ ta chiến tranh, tranh giành thuộc địa đã nổ ra càng ngày càng dữ dội, cảnh cá lớn nuốt cá bé xảy ra thường xuyên ở các Bộ Lạc. Lại thêm ở bên kia bờ Bắc, Bắc sông Trường Giang đã hình thành lên nhiều Vương Quốc hùng mạnh, gần theo kịp Vương Quốc ta. Và nghe đâu các Vương Quốc hùng mạnh ấy có ý dòm ngó nước ta, đâu cũng là mối lo cho nước ta về sau.

Đất đai màu mở với hai nền văn minh độc bá thiên hạ, nền văn minh lúa nước, nền văn minh giao tiếp hội họa là miếng mồi ngon cho bao kẻ tham lam đầy dã tâm, tính mưu tính kế, có cơ hội là nuốt nước Xích Quỉ ta trong tương lai là điều không tránh khỏi.

Nước Xích Quỉ ta tuy rộng lớn nhưng không phải là tường đồng vách đá, khó mà ngăn chặn được lòng tham của con người, nhất là con người đã biến thành Lang sói ác Quỉ.

Trước tình thế dù cho con Hổ to lớn mạnh đến đâu mà xung quanh con Hổ toàn là Cáo Sói, đầy mưu mô xảo quyệt. Một con chúng không làm gì được nhưng cả bầy háo chiến tấn công con Hổ làm cho con Hổ kiệt sức, cuối cùng con Hổ cũng bị hạ gục. Chúng giành nhau ăn thịt mỗi con mỗi miếng, thời còn gì nước Xích Quỉ ta. Miếng mồi hấp dẩn, họa phúc khó lường, một đất nước quá béo bở, không lo xa cũng không được và con cũng đã tính tới điều này, trong tương lai nhưng con vẩn chưa tìm ra cách đối phó.

KINH DƯƠNG VƯƠNG nhìn con đầy thương yêu hết lòng khen ngợi, con tuy còn trẻ nhưng đã biết lo xa, phòng bệnh hơn chữa bệnh, chủ động vẫn hơn là bị động. Không thể tới đâu hay tới đó, nước tới chân mới nhảy. Người giỏi cờ cũng phải tính trước vài ba nước đi. Nhà kinh tế, chính trị, quân sự tài, phải tính trước 10 năm 20 năm thậm chí cả 100, 1000 năm.
**************


CHƯƠNG 7

PHẦN 3

DUY VẬT DUY TÂM

KINH DƯƠNG VƯƠNG vẩn giữ một thói quen là giữa tháng đến ngày rằm Trăng tròn đến lầu vọng Nguyệt đế ngắm Trăng nghiền ngẩm Đạo Pháp. Lần này có khác Kinh Dương Vương dẩn theo Thái Tử, hai cha con Kinh Dương Vương vừa đi vừa nói chuyện. Thái Tử là người nhậy cảm, lại hay chú tâm quan sát cảnh vật. Thái Tử nghỉ mới trong nháy mắt, mọi cảnh vật hầu như thay đổi hoàn toàn. Mặt Trời vừa lặng, màn đêm buông xuống rất nhanh, Lâu đài Cung Điện, cảnh vật non sông ngập chìm trong màn đêm hết thảy.

Cảnh chiều tà nhìn quê hương Tổ Quốc xinh đẹp làm sao, còn giờ đây quê hương Tổ Quốc chỉ là màn đen u tối, sáng và tối hai cảnh giới khác biệt nhau. Cảnh Thiên Đàng và cảnh Địa Ngục. Một cảnh đầy sức sống muôn màu muôn sắc, người thi nhau thọ hưởng, chim thi nhau ca hát, Thú Cầm gầy tình gầy bạn, cỏ cây khoe trái, khoe hoa. Lũy tre, Đồng Ruộng mái lá nhà tranh rộn tiếng cười, cánh Cò trắng Lã lượng bay vui, đàn Bò, đàn Trâu vui ngúc ngoắt. Mục Đồng thổi sáo cánh Dều bay, quang sáng tâm Hồn đầy sức sống, tối mê lầm lạc họa tai bay. Nhìn cảnh đêm đen Thái Tử cảm thấy nổi buồn xa xăm, cô đơn lạnh lẻo như đang ở cõi âm Cung. Như ẩn chứa bao điều tai họa chẳng lành thầm bí. Phải chăn cõi nhân gian là cánh cửa để bước vao cõi Thiên Đàng, Địa Ngục âm phủ. Phải chăng sáng và tối đã nói lên một điều. Ánh sáng Chính Nghĩa tắc, thời u minh trùm lấy nhân gian như báo hiệu chiến tranh sẽ xảy ra, mở rộng lan tràn khắp Địa Cầu. Ánh sáng Tâm linh Chính Nghĩa đã tắc, thời thế giới Cáo Sói Rắn Rít hiện ra, nhân loại đi vào đại nạn khốn khổ, cuộc sống đe dọa từng ngày.

Thái Tử chìm đắm trong suy nghỉ, thời ánh Trăng cũng đã lên từ lúc nào, ánh Trăng êm dịu hiền từ như người Mẹ quê hương ôm lấy những người con lạc lỏng trong đêm tối. Ánh Trăng chiếu xuống lầu đài Cung Điện sơn phết một màu bạc nhưng cũng để lại loan lổ những chỗ đen như nhắn nhủ với con người rằng, tội ác ẩn mình sau lớp thiện, ánh Trăng mất thời chúng sẽ hiện ra. Và chỉ có ánh Mặt Trời thời chúng mới chịu tan biến hoặc ẩn mình nơi hang cùng ngỏ hẻm.

KINH DƯƠNG VƯƠNG nhìn Thái Tử lúc nào cũng trầm tư như vậy. Liền buông tiếng cười thở dài, tiếng thở dài của người Cha đã làm cho Thái Tử giật mình, mới hay đã đến lầu vọng Nguyệt từ lúc nào. Kinh Dương Vương nắm tay Thái Tử như truyền hơi ấm nói lên rằng, có Cha đây, Cha sẽ là ngọn Thái Sơn che chở cho con lúc đông về. Thái Tử được Cha dắc lên lầu vọng Nguyệt, cặp ghế Rồng ghế Phụng như cũng đã biết mình có bổn phận nâng đở Cha con Kinh Dương Vương yên nghỉ hòa mình vào cảnh giới Đêm Trăng. Xa xa tận chân Trời vừng hào quang dịu mát phát ra từ vần Trăng tròn trịa nhô lên khỏi khóm tre già. Cảnh vật thi nhau im lặng tận hưởng ánh Trăng êm ã, sau một ngày vật vã với nắng chang chang. Ánh Trăng đến ánh Trăng đi không mang theo sự vui buồn của nhân gian, vô tư trong sáng chẳng nhiểm chút bụi trần nào cả. Nhưng con người thì khác hẳn, sanh ra ở đời đắm chìm gian ác, tham lam ganh gét, làm tâm Hồn bẩn nhơ, làm hôi hám xã hội. Nhưng rốt cuộc thời được những gì, tất cả chỉ là con số 0.

Kinh Dương Vương lại nghe tiếng thở dài Thái Tử. Sự việc ở đời rốt cuộc rồi cũng thế, cuộc đời khác nào vần Trăng, lúc thời mờ lúc thời tỏ, khi tròn khi khuyết, khi đầy khi vơi. Thiên Nhiên vẩn còn chơi trò biến ảo, luật tuần hoàn cứ lặp đi lặp lại, hết mưa rồi nắng, hết ngày tới đêm. Xuân Hạ Thu Đông cứ luân phiên chuyển hóa, hết xuân rồi lại tới xuân, xuân đi rồi xuân lại về, chỉ có không gian lúc nào cũng vẩn thế, không đi không đến. Tuy ở sát người thế mà không mấy ai với tới cả.

Thái Tử nghỉ chốn nhân gian này khó tìm ra hạnh phúc vĩnh cửu mà những thứ hạnh phúc tạm thời, chóng đến rồi cũng chóng đi, có gieo có hưởng, họa hay phúc đều do con người triệu nó đến, tất cả đều có căn có cội. Kinh Dương Vương nhìn con suy nghỉ không hiểu con ta nghỉ những gì, sao lúc nào cũng trầm lặng suy tư, khổ cho con ta quá. Thái Tử bổng lóe lên ý nghĩ liền hỏi Cha, Cha có từng nghe đến Quả tim Nhân Loại chưa? Cha có từng nghe đến bất chiến tự nhiên thành chưa?

Kinh Dương Vương vô cùng kinh ngạc, vi đây là lần đầu tiên nghe câu hỏi lạ. Kinh Dương Vương nói con hỏi gì lạ vậy ở đời ai không có Quả tim. Thái Tử trả lời thưa Cha! Không phải con hỏi Quả tim con người mà ai ai cũng có, mà con nuốm hỏi đến Quả tim xã hội. Quả tim truyền thống. Quả tim Nhân Loại. Quả tim vì người mà sống, không phải vì mình mà sống. Quả tim vì mình mà sống ai ai cũng có. Quả tim xã hội là Quả tim của mọi người, của mọi tần lớp nhân dân, khi trái tim ấy đập lên thời toàn xã hội như được hồi sinh trở lại, đời sống xã hội tươi vui, đâm chồi nẫy lộc đơm hoa kết trái. Thái bình Độc Lập tự do hạnh phúc.

Quả tim ấy mang hơi thở truyền thống Cội Nguồn dòng máu Cha ông đến với Con Cháu hiện tại. Làm cho nhân loại đâm chồi Chính Nghĩa, nở hoa tự do, kết quả hạnh phúc. Nếu xã hội non sông Tổ Quốc nào có Quả tim vì người không vì mình, mỗi nhịp đập của quả tim ấy là mỗi lần đem mùa xuân đến cho xã hội, cho quê hương Tổ Quốc non sông. Kinh Dương Vương nghe con nói như thế, thời kinh ngạc đến sửng sốt hỏi lại, có Quả tim đó thật sao. Thái Tử nói thưa Cha! Chỉ có Quả tim vì Nhân Loại mới cứu nổi Nhân Loại. Quả tim bất chiến tự nhiên thành. Quả tim Nhân Loại không thuộc ở cá nhân riêng mình mà cho xã hội. Nhân loại khổ là Quả tim ấy khổ, nhân loại vui là Quả tim ấy vui. Kinh Dương Vương nói: Không có Quả tim đó đâu con. Thái Tử nói: Làm Quốc Vương mà chỉ biết về mình, gia đình mình, dòng Họ mình, Tổ Quốc của mình thời vị Quốc Vương ấy chưa có Quả tim Nhân loại xã hội. Lúc nào cũng nói vì dân vì nước nhưng thật ra tất cả cũng chỉ là cũng cố quyền lợi cho riêng của mình mà thôi.
Thái Tử lại nói: Vị Quốc Vương có Quả tim Nhân Loại, thời dân chúng chính là máu thịt của người. Dân chúng bị tổn thương thời chính ngài tổn thương, người có Quả tim vĩ đại ấy cứ mỗi nhịp đập là mỗi công bằng văn minh.

Kinh Dương Vương như chợt hiểu nói! Con muốn nói đến Quả tim của Chuyển Luân Vương. Thái Tử nói đúng như vậy Cha ạ. Chỉ có Quả tim Chuyển Luân Vương xuất hiện thời nhân loại mới được giải cứu thoát khổ.

Kinh Dương Vương nói! Chuyển Luân Vương chỉ là truyền thuyết không có thật đâu con. Lập lên đất nước Tổ Quốc mà không cần tranh giành Quyền lực, không cần đụng đến gươm Đao giáo mác, chỉ có nụ cười thay cho máu đổ đầu rơi, Thái Bình mãi mãi. Nếu quả thật có Chuyển Luân Vương xuất hiện thời Quả tim Nhân Loại xã hội ấy cũng đành bó tay không đập được, vì trình độ dân trí quá Lạc Hậu, lại bị các Quả tim ác Quỉ thống trị rồi.

Hiện nay vận mệnh Quốc gia, non sông Tổ Quốc phải có người chèo lái, vì Biển trần đang nỗi cơn sóng dữ dội, mình không đánh họ, thời họ cũng sẽ đánh mình. Kinh Dương Vương lại nói. Từ thời Hồng Đế tới thời Viêm Đế Thần Nông xuống tới thời Kinh Dương Vương, kéo dài hàng triệu triệu năm với truyền thống lâu đời ấy, tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng không có một dân tộc nào sánh kịp nhưng không có gì là tuyệt đối mãi.

Gần trăm năm nay, tình thế có phần chuyển đổi, từ môn phái Thần giáo chuyển sang phong kiến Thần giáo, giáo Điều và Điều lệ cũng theo đó vượt lên chặt chẽ hơn. Cùng lúc ấy phái Duy vật giáo nổi lên làm chao đão tình thế của nhiều Vương Tộc trong đó có nước Xích Quỉ ta.

Duy vật giáo suy tôn khoa học, luận chứng họ ca ngợi nền văn minh lúa nước cũng như nền văn minh hội họa giao tiếp thông điệp của ta, đưa nhân loại chuyển sang giai đoạn mới cũng như ca ngợi nền văn minh Tơ Tằm dệt lụa ở bên kia bờ Bắc sông Trường Giang, đem lại thật sự hửu ích cho con người. Còn phái Thần giáo thời chủ thuyết Tôn thờ Thần Linh, vì Thần Linh là chủ của thế giới phàm trần và bùa chú là một minh chứng hửu hiệu. Những ai chống trả lại liền bị Thần Linh giết chết.

Hai giáo phái ấy mỗi ngày một lớn mạnh làm chao đão tình hình phương Đông. Từ môn phái Thần giáo chuyển sang phong kiến Thần giáo, trường phái Duy vật bị phong kiến Thần giáo đánh bại. Nên Đại đa số phái Duy vật làm thuyết khách đi lần về phương Tây. Khi ấy phương Tây, trường phái phù thủy đang thịnh hành, là chủ nhân của giai cấp, chiến hửu nô lệ và tiến tới thời cực thịnh của chiến hửu nô lệ nguyên thỉ. Và nghe đâu trường phái Duy vật được các phù thủy trọng dụng và nổi lên ở phương Tây, giai cấp phong kiến chủ đất ra đời mỗi lúc một hùng mạnh và đã lan truyền xuống phương Đông, nhất là ở các Địa phận Trung Đông. Lúc bấy giờ ở Trung Đông từ phong kiến Thần giáo đột phá, có nơi đã chuyển sang phong kiến Vua, Chúa thống trị. Vì thế giáo điều, điều lệ cũng nâng lên một tầm cao mới. Phong kiến Vua, Chúa ở khu vực Trung Đông này lan tỏa rất nhanh, mở ra nhiều nền văn minh mới và chiến tranh tranh giành thuộc địa ở khu vực này thảm khốc vô cùng, chiếm hửu nô lệ thảm khốc vô cùng.

Nghe Cha kể lại sự biến động xã hội, trải qua hàng trăm năm, hàng nghìn năm có thể còn lâu xa hơn nữa, kiến thức của Cha quả thật hơn người. Có lẽ từ nơi người Cha thông thái dày kinh nghiệm này mà mình tìm thấy cái mình muốn tìm cũng nên vì nghỉ thế nên Thái Tử hỏi?

Thưa Cha có phải con người ngày xưa họ thờ Cầm Thú như thờ Rắn, thờ Heo, thờ Trâu, thờ Bò, thờ Cọp, thờ Ngựa, thờ Cá, thờ Tây có thật không?

Kinh Dương Vương đáp, cần gì thời xưa mà ngay cả thời bây giờ cũng còn nhiều. Ở thời tiền sử có một số dân tộc lạc hậu, họ thấy loài Cầm Thú có con có pháp thuật họ suy tôn là Thần, rồi tôn thờ để cho Thần, Thú Cầm không làm hại họ, đó là Tà Giáo kéo dài hàng triệu triệu năm. Nhưng lần lần sau đó các dân tộc tiến bộ, nhân thức được con người là chủ của muôn loài Cầm Thú, không còn sợ các loài Cầm Thú nữa thậm chí còn săn bắn chúng để lấy thịt lấy da phục vụ cho con người, đời sống tiến lên một mức cao hơn, khám phá ra các Thần Linh do sự tiến bộ của con người mà ra, Linh Hồn tiến hóa lên các vị Thần như Thần Thổ Địa, Thần Núi, Thần Sông, Thần Biển, Thần Mưa, Thần Gió, Thần Lửa. Như Thần Mặt Trời của Vương Tộc Long Giao ngoại của con. Thần hạnh phúc, Thần quyền năng những nước lớn như Đế Minh, Đế Lai, Đế Nghi, thờ cúng tế lễ linh đình, đời sống con người phát triển. Các Thần giáo cũng theo đó mà phát triển, tôn phong sùng kính kiến lập lễ nghi, lễ nghĩa, lễ giáo, lễ vật đi vào đời sống xã hội con người. Nhân cách con người theo đó ngày càng thiết thực phong phú hơn như Đạo Cha Con, Chồng Vợ, Họ Tộc, xốm làng, xã hội Tổ Quốc, rõ ràng hơn cụ thể hơn. Có thể nói giai đoạn Thần giáo đã đến thời cực thinh.

Trường phái Duy vật tuy ra đời sau Thần giáo hàng triệu năm, hiện Thân của chủ thuyết chính trị, đối lập lại giáo trị Thần giáo, trường phái Thần giáo.Trường phái Duy vật giáo đều rất lợi hại vì có cái lý đứng vững của nó.

Có lần Cha cho mời hai trường phái đến để nghe thuyết giáo. Chủ thuyết Thần giáo phát triển xã hội theo hướng tinh thần, giáo dục con người theo giáo Đạo lời dạy của các Đấng Thần Linh.

Chủ thuyết Duy vật giáo, phát triển xã hội theo đường lối phát triển khoa học, đất nước nào làm chủ khoa học nhiều, đất nước đó sẽ thống lĩnh thiên hạ.

Có một điều con nên hiểu, phái Duy vật là nhốm phái tôn thờ các nhà phát minh khoa học, Họ không phải là nhà khoa học mà họ chỉ là con chiên sùng kính khoa học mà thôi. Cũng như các phái Thần giáo, họ không phải là các vị Thần mà Họ chỉ là con chiên sùng kính các vị Thần mà thôi. Xét cho cùng hai trường phái này chỉ là hai trường phái Duy Tâm và Duy vật mà thôi, họ chỉ là cái vỏ của Thần Linh và các nhà khoa học, cái lớp vỏ lợi hại của xã hội. Cha là người cẩn thận vì quá hiểu rõ chúng vì chúng chưa phải là trường phái Đấu Đá nhau. Vì xưa nay truyền thống Dân Tộc ta chỉ lấy Đạo Nhơn Luân Hiếu Nghĩa, tôn thờ Ông, Bà, Cha, Mẹ, Tổ Tiên làm đầu, bảo vệ non sông Tổ Quốc làm trọng.
**************


CHƯƠNG 7

PHẦN 4

TRANH GIÀNH THUỘC ĐỊA.

Kinh Dương Vương nói. Này con.

Trường phái Duy vật bị trường phái Thần giáo đánh bại, mang hận thù đi về phương Tây. Còn nhắc nhở rằng sẽ đánh bại phái Thần giáo không xa khi xã hội Vua, Chúa phát triển.

Các Bộ Lạc Chúa Đất ở phương Tây, đón tiếp trường phái Duy vật biện chứng vào hàng thượng khách, làm tôn sư thay thế cho phù thủy. Mở ra đường hướng chính trị thôn tính Độc Bá Thiên Hạ, tiến tới công lệ thay cho giáo Điều phù thủy. Điều lệ của Chúa Đất trước đây. Đặc ra kế sách khai thác tài nguyên thiên nhiên như Vàng, Bạc, Đồng Thau, Lộ Thiên v.v… Rèn luyện lên Đao, Búa, Tên, Giáo v.v.. Từ nền phong kiến Chúa Đất chuyển sang giai đoạn sơ khai phong kiến Vua, Chúa. Các Chúa Đất lạc hậu liền bị thôn tính hoặc bị diệt trừ mở màn chiến tranh mỗi lúc một quy mô. Tranh giành nổi lên, tranh giành thuộc địa, thắng là Vua thua là giặc, thật ra mà nói giặc hay Vua cũng chẳng khác gì nhau. Những kẻ bị bắt làm tù binh với khẩu hiệu thuận ta thì sống, chống ta thì chết. Thây chất thành đống, máu nhuộm đỏ sông, từ chiến tranh, tranh giành thuộc Địa. Có chổ biến thành chiến tranh diệt chủng.

Có thể nói nền phong kiến Thần giáo ở phương Đông đã đến hồi cực Thịnh, phong kiến Đế, Vương thịnh hành ra đời. Thật ra dân tộc Hồng Bàng, Hồng Đế ta đã Xưng Đế, Xưng Vương từ lâu lắm rồi. Nước Xích Quỉ thời Kinh Dương Vương ta cũng đã đến thời cực thịnh với hàng chục Bộ Lạc, Vương Quốc lớn, Vương Quốc nhỏ, bao bọc xung quanh nước Xích Quỉ ta. Đáng ngại nhất là phương Bắc, bên kia bờ sông Trường Giang, các Vương Quốc lớn đã có mưu đồ từ lâu, thôn tính nước ta. Tuy việc chưa xảy ra nhưng cũng cần tính trước chuẩn bị khi cần. Nếu chúng ta tới đâu hay tới đó, một khi chiến tranh xảy ra, thời bị động khó đối phó kịp. Cảnh chết chóc, nhà tan cửa nát, quê hương làng xốm tiêu điều, chiến tranh, tranh giành thuộc địa là chiến tranh mạnh được yếu thua, chiến tranh diệt chủng. Địa ngục, nô lệ, tù đày đến với con người nhanh hơn tên bắn. Xã hội nhân loại đại loạn không luật lệ gì cả.

Cha đã xem kỉ Phong Thủy Địa Mộc nước Xích Quỉ ta. Chỉ có lợi cho mặt chăn nuôi, trồng trọt, đánh bắt cấy lúa. Nói chung là thuận lợi cho mặt làm giàu, đất đai phần nhiều là bằng phẳng, ít hiểm trở, sông ngòi kinh rạch chằn chịt, thông ra biển. Nước ta tuy lớn nhưng nằm ở thế bao vây, thế lực từ các dãy núi cao đánh xuống, Lỉnh Nam yêu quái đánh ra, ngoài biển đánh vào, các thế lực phương Bắc đánh vô, thời nước Xích Quỉ ta dần thu hẹp lại. Nhưng Cha vẩn chưa tìm ra giải pháp ứng phó, về lâu về dài. Theo Cha nghỉ chỉ có một cách duy nhất, muốn giữ được non sông màu mở, thời phải có hai loại vũ khí, không phải là loại vũ khí Đồng Thau mà là thứ vũ khí hiện Đại Bảo Bối vũ trụ, có thể một nhác Đao nhác Búa tiêu diệt cả Đại Quân xâm lược. Bảo Bối thứ hai là Bảo Bối Trí Tuệ, điều khiển Thiên Hạ mà không cần tới gươm Đao, tập hợp sức dân thành một khối thống nhất. Mỗi người dân là một Dũng sỉ diệt giặc như một bó đủa khổng lồ không ai địch nữa.

Kinh Dương Vương nói. Phái Thần giáo thuộc Dương sẽ có lợi cho dân tộc về mặt tinh thần nhưng có hại cho dân tộc về mặt phát triển, đời sống vật chất, lệ thuộc Thần Linh nhiều quá. Trước bối cảnh thiên nhiên như nắng hạn, Lụt Bão, ốm đau dịch bịnh, không lo tìm ra phương pháp cứu chữa, chỉ lo cầu cạnh lễ cúng Thần Linh mà quên đời sống có làm mới có hưởng. Chiến đấu với bệnh tật, chiến đấu với cái đói cái nghèo, đẩy lùi lạc hậu, con người lệ thuộc vào Thần Linh nhiều quá, không tự bảo vệ được mình, thời bảo vệ xã hội sao nổi, nói gì đến non sông Tổ Quốc. Nếu không tìm tài phát minh sáng kiến tiêu diệt đẩy lùi bệnh tật đói nghèo là mối lo chung cho toàn xã hội. Hạn chế lệ thuộc thiên nhiên về thời tiết, những năm xảy ra đầy khắc nghiệt, hạn chế thất thu, giữ vững đời sống ấm no. Thời không đánh giặc, giặc cũng đánh ta.

Một khi chiến tranh đã nổ ra. Thời Thần Linh cũng vô phương cứu chữa, không ngăn nổi chiến tranh. Thờ phụng Thần Linh là một điều tốt, hể có cảm thời có ứng. Nhưng Thần Linh không phải là Đấng tối cao nên Thần Linh cũng bất lực trước thiên nhiên, trước xung đột chiến tranh. Vì vậy phái Thần giáo Thờ Thần Linh cũng không giải quyết được gì lớn lao cho con người cho non sông Tổ Quốc về sau. Nhất là các thế lực đang trên đà hùng mạnh dồm ngó đến đất nước ta. Nhưng chỉ biết lao theo quyền lực, lao theo vật chất. Theo xu hướng phái Duy vật, chỉ biết tôn thờ cái lợi trước mắt mà quên đi cái hại về sau. Đẩy nhân loại vào cuộc tranh giành thảm khốc như các thế lực tranh giành thuộc địa ở phương Tây. Có nơi đi đến cảnh diệt chủng.

Thái Tử nói. Thưa Cha. Một Quốc gia hùng mạnh ấm no hạnh phúc, xã hội đó có đủ hai yếu tố, văn minh tinh thần, văn minh vật chất. Văn minh vật chất là phục vụ cho đời sống con người, dân giàu nước mạnh. Văn minh tinh thần là văn minh Chính Nghĩa phục vụ công bằng văn minh xã hội, thời đất nước đó mới thật sự hùng mạnh, thật sự dân giàu nước mạnh, thời coi như ngăn chặn được một nữa trước các thế lực ngoại xâm.

 Muốn có được xã hội như vậy không thể tìm thấy ở trường phái Thần giáo hay ở các vị Thần Linh. Cũng không thể tìm thấy ở trường phái Duy vật tôn thờ khoa học hay ở nhà khoa học mà là ở vị Quốc Vương sáng suốt, thực hiện đường lối đúng đắng thông thoáng rộng mở, lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh sẳn có nơi dân. Làm tiền đồ cho non sông Tổ Quốc, tận dụng Tinh Hoa trường phái Thần giáo cũng như trường phái Duy vật giáo làm lợi cho xã hội cho Tổ Quốc. Như con ong chăm chỉ, chỉ lấy mật không lấy hoa.
**************


CHƯƠNG 7

PHẦN 5

CHỦ NGHĨA THỨ BA

Nói cho cùng vật chất nuôi thể xác, còn Chân Lý, Đạo Lý nuôi Linh Hồn. Văn minh vật chất đưa xã hội đến no cơm ấm áo, xã hội giàu sang, Tổ Quốc giàu mạnh. Văn minh tinh thần là văn minh Chính Nghĩa là rường cột xã hội, cốt lõi của non sông Tổ Quốc. Cũng như con người đứng vững là nhờ cốt lõi bộ xương của con người. Tinh Thần đứng vững là nhờ cốt lõi của văn hóa truyền thống, nằm trong hai trường phái Duy tâm lẩn Duy vật.

Kinh Dương Vương nói, nếu để như vậy thời nói mà làm gì, hai trường phái ấy như nước và lửa, như âm và Dương, khó mà dung hòa hai trường phái lại với nhau. Ở phương Đông ta chưa có vị nào đủ sức kết hợp hai trường phái ấy thành một, làm lợi ích cho quốc gia xã hội.

Thái Tử nói thưa Cha. Tâm Linh và Thể xác, Thần Linh và các nhà Bác Học, khoa học không thể thiếu trong đời sống xã hội cũng như con người. Ở đây con muốn nói là: Cha có thể vận dụng cái hay Tinh Hoa của hai trường phái, cùng làm lợi cho xã hội là tự mình tốm thâu Tinh Hoa của hai trường phái. Khi nghe hai giáo phái thuyết trình, Cha chính là con ong chăm chỉ tận tị hỏi, tận tị lắng nghe, khi nào nào hai đóa hoa Duy Tâm lẩn Duy vật không còn mật để hút nữa thời thưởng vàng bạc châu báu cho họ, không xài họ, lấy kiến thức của người, không lấy người. Cũng như con ong chỉ lấy mật không lấy hoa.

Các loài hoa tuy khác nhau về màu sắc, về hình dạng nhưng Tinh của các loài hoa đồng cùng vị ngọt, không xung khắc nhau. Không những dùng mật ong trị bịnh mà còn bỗ dưỡng nữa. Không những trường phái Duy Tâm, Duy vật, còn nhiều trường phái nữa. Chúng ta cần nhiều trường phái, không phải dùng họ mà tôm gốp tinh hoa của họ, dung hòa thành một. Mở ra một hướng đi mới. Hướng đi trong lòng người, trong lòng nhân loại, đưa xã hội tiến lên một tầm cao. Chủ Nghĩa Đại Đồng. Chủ Nghĩa nhân quyền. Chủ Nghĩa Công Bằng xã hội.

Kinh Dương Vương vô cùng kinh ngạc nói. Xưa nay, Cha chưa từng nghe nói một chủ nghĩa lạ lùng như vậy. Không hiểu chủ nghĩa ấy có đưa đến dân giàu nước mạnh không? Có chống đở nổi các thế lực ngoại xâm không?

Thái Tử nói Chủ Nghĩa Đại Đồng là chủ nghĩa tìm ra tiếng nói chung, giữa cá nhân và tập thể, giữa Tư Hữu và Công Hữu. Xã hội vừa khoa học vật chất vừa truyền thống Tâm Linh, xã hội Thần Thánh, xã hội Công Bằng văn minh, xã hội Nhân Quyền. Tất cả đều sống theo truyền thống Đạo Pháp. Sống theo Hiến pháp Nhân quyền. Sống theo Luật pháp Công Bằng. Vương, Quan là đầy tớ trung thành, phải nói là tuyệt đối trung thành, truyền thống Đạo Pháp dân tộc, trung thành Hiến pháp, Luật pháp mà Quốc Vương là vị tối cao Đại Diện cho mọi tần lớp nhân dân. Nắm vững Cán Cân Công Lý. Thi Hành Đạo Pháp truyền thống dân tộc, thi hành nhân quyền con người, thi hành Luật pháp Công Bằng xã hội. Các cấp Chính Quyền, Vương Quan các cấp cầm cân nẫy mực, làm trọng tài cho cạnh tranh bình đẳng, đưa xã hội lên một tầm cao. Không những giữ vững Độc Lập mà còn làm khiếp đảm các thế lực ngoại xâm, một đất nước toàn dân đều là chủ đất nước đó. Thử hỏi nước nào mạnh hơn để mà xâm lược.

Một đất nước mà toàn dân có gốc đó là Đạo pháp truyền thống dân tộc, Luật pháp Công Bằng xã hội. Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp, Tam Bảo Chí Tôn, chính là Nền Quốc Đạo dân tộc. Dân đã có gốc thời dân mạnh vô cùng, Chủ Nghĩa Đại Đồng là Chủ Nghĩa của dân. Chỉ cần nhà nước lấy dân làm gốc phát huy sức mạnh toàn dân, thời khó khăn nào cũng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh thắng, kinh tế, chính trị, quân sự vững như núi như non.

Sự hưng thịnh của nền phong kiến Thần giáo đã tới hồi cực thịnh, nhất là ở phương Đông chúng ta. Phía bên kia bờ Bắc có Vương Quốc đã chuyển sang phong kiến Chế Độ, kiến lập lên nhiều giáo điều, quân lực, xã hội, chính trị càng ngày càng thêm cũng cố. Muốn chuyển xây tình thế chúng ta vượt lên trên phong kiến Chế Độ. Tiến tới xã hội mạnh về truyền thống Chính Nghĩa, mạnh về khoa học đời sống thay thế Thần giáo. Xóa bỏ mê tính tiến lên chánh tín khoa học, Đạo Đức đời sống Tâm Linh, thời không còn lo sợ gì nữa. Thấy Cha có vẽ lo lắng về tương lai của đất nước.Để Cha được an tâm, Thái Tử nói rằng. Thưa Cha con đã có cách. Kinh Dương Vương phấn khởi nói con tài lắm, con đã tìm ra Căn Cội, Chủ Nghĩa  thứ ba Chủ Nghĩa Đại Đồng rồi sao? Thái Tử nói thưa Cha đúng vậy.

Không đánh mà thắng, gồm thâu thiên hạ về một mối, đó là thượng sách. Bất chiến tự nhiên thành. Nhưng làm được điều này rất khó, phải thật sự làm chủ Tâm Linh của mình.
Thông đạt chứng ngộ đến tận cùng vũ trụ.
Tận cùng nguồn gốc của thế giới vật chất.
Tận cùng nguồn gốc nhân loại con người.
Tận cùng nguồn gốc Tâm Linh con người.

Tạo ra Chủ Nghĩa thứ ba. Chủ Nghĩa Công Bằng văn minh. Chủ Nghĩa Đại Đồng xã hội. Chủ Nghĩa của sự hùng mạnh văn minh vật chất, văn minh tinh thần. Chủ Nghĩa của sự Độc Lập vĩnh cửu. Chủ Nghĩa Thần Thánh. Chủ Nghĩa của sự giàu sang, tự do hạnh phúc. Dùng vũ lực, bạo lực, gươm Đao giáo mác, cung tên, ngựa hay voi tốt, mưu mô xảo quyệt, biết người biết ta, chỉ là hạ sách mà thôi. Xây dựng cơ nghiệp hoặc bảo vệ cơ nghiệp trên đường lối, đường hướng Tà Đạo như vậy. Thời Độc Lập lâu dài không bền vững.

Kinh Dương Vương nghe nói đến, không đánh mà thắng, gồm thâu thiên hạ về một mối, bất chiến tự nhiên thành, thời hỏi: Điều này có thật không? Thái Tử đáp. Thưa Cha có ạ; Đó là Thiên Đạo vũ trụ Văn Hóa Cội Nguồn. Chỉ có Đạo Trời mới gồm thâu muôn vật, mà chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn mới gồm thâu được nhân loại thiên hạ. Văn Hóa Cội Nguồn là đỉnh cao Tinh Hoa của nhiều trường phái  Chủ Nghĩa thứ 3. Chủ Nghĩa Đại Đồng. Chủ Nghĩa sự Công Bằng văn minh. Nếu tìm đến tận cùng nguồn Cội vũ trụ, thời tất cả sự sống đều phát nguồn từ bản thể Đại Đồng. Đại Thần Lực vũ trụ. Đại Linh Hồn vũ trụ. Đại Thần Lực vũ trụ tiến hóa tạo ra thế giới vật chất vũ trụ. Đại Linh Hồn vũ trụ khởi tạo ra Tiểu Linh Hồn con người.

Kinh Dương hỏi: Bằng cách nào con tìm ra Cội Nguồn vũ trụ? Để tìm ra Chủ Nghĩa thứ 3, Chủ Nghĩa Đại Đồng?

Thái Tử đáp. Thưa Cha. Trước hết ta phải nắm bắt Linh Hồn của chính mình, thu phục tâm viên, ý mã hàng phục vô lượng thức tánh trong tâm, kể cả thiện tánh, trí tánh, ác tánh, trở về tánh không, tánh không tánh, chính là tự nhiên tánh, sự hàng phục này phải có thời gian lâu hay mau là do nổ lực quyết tâm của mình. Như người diễn xiếc hàng phục Thú Cầm, người biểu sao thời Thú Cầm làm theo vậy, khi làm chủ được Linh Hồn của chính mình, thời coi như chiếc chìa khóa vạn năng mở tung vũ trụ đã ở trong tay.

Cũng như bọt nước nó đã làm chủ được nó và tự điều khiển nó xâm nhập vào bản thể của nước, tìm hiểu nước vì nước là Cội Nguồn của tất cả bọt nước và nơi bản thể của nước, bọt nước sẽ tìm ra cái bọt nước cần. Khi tiểu Linh Hồn con người hòa nhập vào Đại Linh Hồn vũ trụ, bước vào kho tàng tri thức vũ trụ và chọn nơi đây những tri thức bổ ích xây dựng lên Chủ Nghĩa tri thức, Chủ Nghĩa văn minh bậc nhất thiên hạ.

Chủ Nghĩa mùa xuân, đồng vị ngọt của các loại hoa. Chủ Nghĩa ở đỉnh cao. Chủ Nghĩa của xã hội tri thức, trên hẳn Chủ Nghĩa tư hữu và công hữu. Chủ Nghĩa Đại Đồng kết hợp lợi ích giữa cái Công và cái Tư. Chủ Nghĩa Thần Thánh. Thiên Đạo vũ trụ Văn Hóa Cội Nguồn là con đường Thần Thánh rộng lớn, xuyên suốt không gian thời gian, xuyên suốt quá khứ vị lai sẽ trở thành Nền Quốc Đạo sau này. Gươm Thiên Trấn Quốc.

Kinh Dương Vương mừng rỡ nói con đã tìm ra Chủ Nghĩa tri thức. Chủ Nghĩa Thần Thánh. Thưa Cha đúng vậy. Chỉ cần kiểm chứng lại nữa mà thôi. Sự kiểm chứng ấy Thái Tử Hùng Lan phải mất sáu năm gian khổ, mới thật sự tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn. Con đường lên đỉnh cao xã hội, mở ra giai đoạn lịch sử mới đưa xã hội nhà nước Văn Lang lên một tầm cao kéo dài Độc Lập gần 3 nghìn năm. Thời Văn Hóa Cội Nguồn thất truyền.
**************


CHƯƠNG 8

PHẦN 1

GIAI ĐOẠN KHÓ KHĂN
MỞ MÀN TIÊN ĐẠO.

Theo yêu cầu của Thái Tử. Kinh Dương Vương cho xây dựng tại khu vườn cấm một ngôi nhà khang trang, ba phòng rộng rãi thoáng mát, đầy đủ tiên nghi. Cách cung Đình không xa về hướng Tây Nam khoảng hơn năm dặm. Khu vườn cấm là khu vườn được xây dựng từ lâu, từ thời Kinh Dương Vương đời thứ năm, kiến tạo hơn 10 năm mới xong. Phải nói khu vườn cấm là khu vườn cấp cao, đa dạng thực vật hiếm lạ. Nơi đây được trồng nhiều loại gỗ quí, nhiều loại hoa quí, nhiều loài cây ăn trái cho quả thơm ngon bổ dưỡng. Có hơn trăm loài Chim thường bay tới đây nhất là mùa quả chín, trong đó có cả Chim Phụng Hoàng.

Khu vườn rộng hơn chừng hơn 3 dặm tư vuông được kiến trúc tạo lập, sông, suối, ao hồ, non bộ đường đi ngan dọc lắm công phu. Khu vườn cấm là khu vườn đặc biệt không ai được đến, chỉ trừ Quốc vương, vương Hậu, vương phi hoặc Thái Tử, Công Chúa mà thôi. Vì kiến trúc nơi đây Châu báu, ngọc ngà, vàng bạc, châu báu nhiều vô số kể.

Hàng năm được tu bổ sửa sang nên quang cảnh nơi đây ví như Tiên Cảnh Bồng Lai, thượng giới nhất là những độ xuân về. Hương Hoa ngào ngạc. Đức Vương cùng gia đình đến đây du ngoạn thưởng thức vẻ đẹp phong cảnh, nghe chim hót, nghe chim ca, xem hoa nở, nghe thát reo, ăn quả ngọt, dạo chơi cả ngày cũng không thấy cháng. Quả đúng nơi đây vừa thanh tịnh, vắng vẻ, vừa không sợ đói khác rất phù hợp cho con người chân tu đạt đến cảnh giới tối cao vũ trụ. Mở ra Chân Trời mới.

Từ khi Thái Tử đến khu vườn này để tu luyện, hầu tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Thái Tử là người văn hay giỏi võ, giỏi kế thừa chân truyền Cha mẹ. Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ. Võ nghệ pháp thuật cao cường đi trên mặt nước như đi trên đất liền, phi thân trên ngọn cây như đi trên đường lộ. Tuy còn trẻ tuổi nhưng khó có người địch lại. Nhưng Thái Tử đến khu vườn cấm này chưa một lần dạo chơi, suốt ngày ở trong thiền phòng, tập trung tư tưởng tham thiền quán tưởng. Hầu mong nắm bắt được Linh Hồn của chính mình, bao ý nghỉ tràng lang, không biết đâu là đầu mối, nắm bắt chổ nào. Đã hơn một tháng trôi qua mà chẳng nắm bắt được gì. Càng suy luận càng rơi vào đâu đâu, càng thêm mờ mịt, bế tắc. Thái Tử kiên nhẩn chuyển đổi tư duy quán tưởng những đối tượng cần tìm. Trước hết là Thần giáo.

Thái Tử liền tập trung quán nghiệm các giáo điều của các giáo phái Thần giáo. Không thấy chổ nào là nắm bắt Linh Hồn, làm chủ Linh Hồn của mình cả mà chỉ là một giáo lý nô lệ. Nô lệ Thần Linh, nô lệ Thần quyền, nô lệ cho thói hư tật xấu đầy tham vọng của mình. Rơi vào tà kiến, thờ cúng Thần Linh cũng chỉ vì sơ sệt, cầu tài được lợi, cầu quyền cầu lực, cầu vô bịnh, cầu bớt bịnh, nhờ Thần Linh ban phúc cho mình. Theo sự phán xét của Thần Linh tự trói buộc mình vào cảnh mê tính nô lệ. Theo các trường phái Thần giáo Linh Hồn không bao giờ tự chủ, làm chủ được mình, mãi mãi là con chiên nô lệ của các Thần Linh. Mà Thần Linh nào phải Đấng tối cao vũ trụ, quyền năng có hạng, có những Thần Linh cũng đành bó tay như chiến tranh xung đột xảy ra Thần Linh không ngăn cản được. Đói nghèo lạc hậu Thần Linh không giải quyết được. Thói hư tật xấu trong người làm hại bản thân, gia đình, xã hội, Thần Linh đành bó tay và còn nhiều thứ Thần Linh bất lực chỉ biết đứng nhìn không làm nổi.

Thái Tử càng nghỉ càng thấy chán, vì các trường phái Thần giáo còn ở đâu xa cái mà Thái Tử cần. Đó là Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng. Chủ Nghĩa giải thoát nô lệ. Chủ Nghĩa của sự Công Bằng văn minh, dân giàu nước mạnh, làm khiếp đảm các thế lực ngoại xâm. Giữ vững nền Độc Lập lâu dài.

Thái Tử thấy rõ các trường phái Thần giáo chỉ là những giáo phái tôn thờ các Đấng Thần Linh, những giáo điều bó buộc con người quá lớn. Xu hướng lệ thuộc vào Thần Linh, ỷ lại vào các Đấng Thần Linh, phó mặt cho nghèo đói, chiến tranh và lạc hậu, phó mặt cho thói hư tật xấu do con người gây ra, làm bẩn dơ xã hội. Thái Tử nhàm chán chuyển sang mục tiêu khác, mục tiêu pháp chú Thần quyền. Nghiên cứu tất cả Ma thuật, yêu thuật, pháp chú Thần Quyền, thời còn xa vời hơn nữa. Mục đích phục vụ cho sự tranh bá, tranh quyền điều khiển âm linh tứ tượng, Triệu Quỉ gọi Thần dùng tâm lực, luyện bùa, luyện pháp thuật như đi mây về gió, sái đậu thành binh. Tuy có công năng chữa bệnh trừ tà nhưng chỉ là thứ bệnh tầm thường, còn những chứng bệnh nan y tạo ra thời bất lực vô phương cứu chữa, còn tâm bệnh thói hư tật xấu lại càng vô phương cứu chữa hơn. Lối pháp nữa Tà nữa Chánh. Không có tác dụng cho xây dựng lên xã hội công bằng văn minh, xã hội đỉnh cao của Nhân Loại, văn minh Tinh Thần, văn minh vật chất. Xã hội chuyên sâu về pháp chú Thần Quyền, không những không đưa xã hội đến văn minh mà làm cho xã hội thêm trì trệ. Duy trì cuộc sống lạc hậu chậm phát triển. Đây chính là mối họa về sau dẩn đến mất nước bị các thế lực xâm lược thôn tính, quá nhàm chán. Thái Tứ loại bỏ các trường phái Thần Linh lẩn trường phái pháp thuật thần quyền, chuyển sang nghiên cứu tìm trong các trường phái Duy vật. Duy vật Thần Quyền. Duy vật luận chứng.

Duy vật Thần Quyền là trường phái phù thủy hưng thịnh ở phương Tây, di vật giáo song song với Duy Tâm Thần giáo ở phương Đông, rất dễ lạc vào tà mà ngoại Đạo.

Duy vật Thần giáo chuyên sâu vào lảnh vực vật chất, lảnh vực Cầm Thú như Đá Thiên, Ngọc Thiên, Chồn Thiên, Cáo Thiên, Rắn Thiên, Hổ Thiên, Lửa Thiên v.v…

Duy vật luận chứng là tôn phong các nhà khoa học, các nhà luận chứng vật chất đề cao vật chất. Nếu khám phá nắm bắt được vật chất sẽ trở thành Đấng tối cao vũ trụ, làm bá chủ thiên hạ. Thái Tử phải mất nhiều tháng quán tưởng lần mò tìm kiếm vật chất, theo chủ thuyết trường phái Duy vật luận chứng.

Thái Tử tự sắp xếp phân chia thế giới vật chất ra làm 4 phần.
1: Thể Lực. 2: Thể Hơi. 3: Thể Lỏng. 4: Thể Đặc. Để hiểu rõ hơn 4 thể nói trên của thế giới vật chất vũ trụ và tìm hiểu chúng.

Bắt đầu từ Thể Đặc, nói chung Thể Đặc là Đất Đá bụi bặm chính là rong rêu Thảo Mộc. Tinh của rong rêu Thảo Mộc chính là Động vật, nói chung là Đất Đá, Động Thực Vật. Thái Tử nghỉ. Nếu tách riêng Thể Đặc thành một thể Độc Lập không có một sự tác động nào nữa, thời Thể Đặc chỉ là thể chết bất động mà thôi. Như vậy Thể Đặc không phải là ông chủ của sự sống, chỉ là thể thụ động của thể khác tác động vào. Nếu không có thể khác tác động vào duy trì nó thời nó tự tan rã.

Thái Tử lại nghỉ: Thể Lỏng nói chung là tất cả các tầng lớp nước, kể cả máu huyết của con người. Nếu đem tách riêng Thể Lỏng ra thành thể Độc Lập, không có sự tác động nào nữa thời Thể Lỏng cũng chỉ là thể chết bất động mà thôi. Như vậy Thể Lỏng không phải là ông chủ của sự sống, chỉ là thụ động, không phải tự động. Nếu không có thể khác tác động vào thời nó không bao giờ tự động được.

Thái Tử lại tìm hiểu chuyển sang Thể Hơi, thành thể Độc Lập, không có sự tác động nào nữa, thời Thể Hơi cũng chỉ là thể chết bất động mà thôi. Chỉ là thể thụ động khi bị tác động không phải là chủ động của sự sống.

Thái Tử nghỉ tìm hiểu ba thể vật chất khí chất trên, từ Thể Đặc lên Thể Hơi, từ Thể Hơi xuống Thể Đặc. Không có chủ động sự sống của ý thức mà chỉ thụ động khi có tác động của thể khác vào.

Vậy chủ sự sống là ai, Thể Lực hay Linh Hồn, Thể Lực nói chung là tất cả tần lớp Thể Lực, Thể Lực vũ trụ. Thể Lực con người. Thể Lực là thể tối cao của vật chất khí chất không mùi, không vị, không sắc, không hình, không tướng, nó xuyên qua tất cả không để lại dấu vết. Thái Tử nghỉ ai làm chủ được nó, người đó sẽ là Đấng tối cao, Quyền năng vô hạn. Nhưng nắm bắt được Thể Lực thời bằng cách nào, Linh Hồn và Thể Lực một hay là hai. Đỉnh tối cao của Duy Tâm cùng Duy vật đều nằm tại đây.

Thái Tử nghỉ, từ Thể Đặc lên Thể Hơi, từ Thể Hơi xuống Thể Đặc. Tuy chúng không là chủ thể, chủ động sự sống nhưng chúng chuyển thể từ dạng này sang dạng khác, theo quy luật tự nhiên. Quy luật sanh, trụ, Dị, Diệt, hể có sanh thời có tử. Chuyển đổi theo quy luật tuần hoàn.

Thể Hơi chuyển thành Thể Lỏng, Thể Lỏng chuyển thành Thể Đặc, sự chuyển đổi ấy phải trải qua hàng triệu triệu năm, trí huệ phàm tục khó mà nhận thấy được. Thái Tử rà đi kiếm lại, thế giới vật chất bắt đầu từ Thần Lực cho đến Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc và chúng ma sát tạo thành lửa Tứ Đại vũ trụ. Đất, Nước, gió lửa. Cũng không tìm ra cách nắm bắt Linh Hồn, dù cho thông suốt hết thảy thế giới vũ trụ vật chất, cũng không thể tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn. Chủ Nghĩa Đại Đồng. Cội Nguồn vũ trụ. Hội nhập vào kho tàn tri kiến vũ trụ, rồi từ ấy rút ra những Tinh Hoa mở đường cho nhân loại đi đến chân trời hạnh phúc, đi đến xã hội Công Bằng văn minh, xã hội Thiên Đàng Cực Lạc Quốc. Mệt quá Thái Tử lăng đùng ra và đi vào giấc ngủ ngon.
**************


CHƯƠNG 8

PHẦN 2

CĂNG THẲNG

Nhìn những món ăn toàn là cao lương mỹ vị. Thái Tử nghỉ những thứ này chỉ làm cho cơ thể béo phì, ăn sung mặc đẹp chỉ để phuc vụ cho đời sống thể xác, còn việc tìm cầu nắm bắt Linh Hồn thời khác nào mò kim đáy biển. Linh Hồn do đâu mà có, ai sanh ra, tất cả đều còn nằm trong huyền bí phức tạp vô cùng. Theo Thái Tử nghỉ, Linh Hồn là mấu chốt, để tìm ra Cội Nguồn vũ trụ, chìa khóa vạn năng để mở cánh của Cội Nguồn vũ trụ. Cánh của Cội Nguồn vũ trụ không mở được, thời Văn Hóa Cội Nguồn sẽ không bao giờ xuất hiện ở chốn nhân gian. Thời nhân loại sẽ chìm trong u minh, đưa xã hội nhân loại đến chiến tranh diệt chủng, không còn cứu vảng được. Với bao nỗi suy nghỉ làm Thái Tử quên luôn cả ăn lẩn uống. Thái Tử càng ngày càng gầy đi thấy rõ, thời gian cứ thế trôi qua hơn sáu mươi ngày. Để bớt đi sự căn thẳng Thái Tử liền tản bộ dạo chơi khu vườn cấm, có lẽ đây là lần đầu tiên từ khi Thái Tử đến đây để tu luyện. Nơi đây thật vắng vẽ không một bóng người nhưng thay vào đó là sự vui đùa của những chú Chim chúng ca hát líu lo thật tự nhiên, trong sáng vô tư. Hình như chúng không mang lấy ưu phiền, không cần tính toán những gì xa xôi, nghe tiếng Chim hót như truyền cảm một tâm hồn vô tư. Thái Tử theo tiếng Chim hót, liền tan bao nổi ưu phiền, tâm hồn sảng khoái thành một con người khác hẳn con người của sự tự do vô tư thanh nhàn thoát tục. Đi một khoảng đường, Thái Tử đã lạc vào thế giới non bộ, trùng điệp núi non, Chim kêu Vượn hú, suối lượn uốn quanh, muôn hoa rực thắm, lấn đá chen cây, Lan, Huệ nhìn suối, Đào, Mai nhìn mây, Tùng Bách thi nhau đua tàng khoe dáng, mặt Hồ lóng lánh. Sen mởn mởn xanh. Cá lượng vòng quanh. Bướm nghe nhạc rừng, suối reo không ngừng, gió tìm vào Động. Nước luồng qua khe. Nước Non cảnh đẹp. Xuân vầy thêm xinh.
Tâm Hồn thanh thoảng biết bao nhiêu
Nhìn nước nhìn non ánh nắng chiều
Lung linh cành biếc xuân nẩy lộc
Hoa nhìn mây nước Chim nhẹ kêu
Cá lội tung tăng nghe nhạc suối
Tùng, Trúc, Đào Mai nhẹ tiêu diêu
Bồng Lai Tiên cảnh nơi trần thế
Mở hội tự nhiên rõ mọi điều.

Nhìn cảnh quang đẹp tự nhiên chẳng khác nào bồng lai Thiên giới, do con người kiến tạo lập lên. Thái Tử xuất thần nghỉ con người là Tạo Hóa Con, sau Tạo Hóa Cha. Thái Tử lại nghỉ con người là Tạo Hóa Con, con của Tạo Hóa Cha. Tạo Hóa Cha Tạo lập lên vũ trụ. Tạo Hóa Con, tạo lập lên Thiên Đàng Cực Lạc. Tạo Hóa Cha lập lên con người. Tạo Hóa Con tạo lập lên xã hội con người.

Nhứt là xã hội văn minh, xã hội Nhân Quyền Bình Đẳng, Công Bằng tự do, xã hội hạnh phúc. Xã hội của sự tự giác cao. Muốn có xã hội như thế, không phải tự nhiên mà có được, phải có con đường Chân Chính đi lên, con đường tiến tới xã hội văn minh đó. Nhìn những hòn non bộ thật mà giả, giả mà thật, cảnh quang nơi đây không phải tự nhiên mà có, mà do con người sáng tạo lập nên, giả mà thật, thật mà giả, cũng như hình và bóng, bóng của hình. Nhìn sự liên kết hòn non bộ tạo thành một dãy núi nhưng lại là những dãy núi đẹp, nhìn những dãy núi giả thật, thật giả ở đây so sánh các dãy núi ở các Châu lục, thời thật giả có khác nhau chăng.

Thái Tử xuất Thần quan sát suy xét so sánh tìm ra chân tướng của sự thật và bổng nhiên hội ngộ. Thái Tử nghỉ các dãy núi của các Châu lục hùng vĩ xinh đẹp là do bàn tay Tạo Hóa Cha chuyển xây Tứ Đại. Đất Nước Gió Lửa tạo lập ra, giả lập lên. Cũng như các hòn non bộ giả sơn ở đây vừa xinh đẹp vừa hùng vĩ là do Tạo Hóa Con bàn tay con người, tôm gốp đất đá để tạo lập ra, giã lập tạo lên theo ý tưởng con người, giả lập không thật.

Thái Tử lại nghỉ, chân tướng của Đất Đá vốn không tướng, chỉ là lớp bụi vi trần theo bàn tay Tạo Hóa Cha nhốm lại, tạo lập lên Đất Đá vũ trụ, chuyển xây Tứ Đại, Đất Nước Gió Lửa tạo lập lên núi non sông hồ biển cả, giả lập tạo lên núi non sông hồ biển cả, giả lập tạo lên cảnh giới Địa Cầu vũ trụ. Và con người cũng vậy, do Địa Mẫu Âu Cơ tốm thâu Tinh Hoa khí ngũ Địa, Đất Nước Gió Lửa tạo lập lên thể xác con người và thật tướng của con người cũng chỉ là Tinh Hoa vi trần cát bụi mà thôi, đủ duyên thì nhốm, hợp, hết duyên thì tan rã.

Lại thêm một tia sáng lóe lên trong đầu Thái Tử, chân tướng của thế giới vật chất vốn không tướng, mọi hình tướng đều là giả lập, giả tướng mà thôi, cho đến thể xác cũng thế. Có lẽ thế giới Linh Hồn hay chính Linh Hồn ta cũng vậy. Thật Tướng, Thật Tánh của Linh Hồn cũng chỉ là không tướng, không tánh, bản thể linh minh Diệu giác trong sạch vô vị, không ý, không thức. Nếu bản thể Linh Hồn không tánh, không tướng, không ý, không thức, thời làm gì có thói hư tật xấu, tham lam tật đố kêu căng ngạo mạn làm hại nước hại dân, những thứ tánh rác rưởi ấy làm bẩn dơ xã hội, hôi hám và đầy dẫy tội ác. Thật Tánh của Linh Hồn làm gì có những thứ tánh ấy.  Có lẽ do Linh Hồn mê muội rạo ra những thứ tánh nhơ bẩn đó mà thôi. Những người mê muội họ mãi duy trì những tánh xấu xa đó. Còn những người giác ngộ họ loại bỏ ngay những tánh hư tật xấu ra khỏi Linh Hồn của họ. Để khỏi những tánh hư tật xấu ấy làm hại bản thân, làm hại gia đình, làm hại non sông Tổ Quốc.

Như thế Thái Tử đã nhận ra chân tướng, chân tánh, bộ mặt thật của Linh Hồn, tràng đầy niềm tin tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng tối cao vũ trụ.

Thái Tử nhìn thát nước, những bọt nước do nước sanh ra, sau đó liền tan biến trở về là nước, như đánh thức Thái Tử một điều quan trọng. Tiểu Linh Hồn con người muốn hội nhập vào Đại Linh Hồn vũ trụ, thời Linh Hồn, Tâm Hồn không phải ý niệm tướng về không hoặc không suy nghỉ gì cả, giống như tự nhiên nhưng không phải tự nhiên mà phải Đại ngộ chân tâm chân tánh của mình. Tánh không là chân tánh. Tướng không là chân tướng. Ý không là chân ý. Trí không là chân trí. Tự nhiên như hư không, không phải tu chứng đắc gì cả, giống như viên Ngọc dính bẩn rửa sạch bẩn viên Ngọc vẩn là viên Ngọc trước sau vẫn là một, không phải dính bụi mà viên Ngọc thêm, không phải rửa bụi mà viên Ngọc bớt, viên Ngọc trước sau sạch dơ vẫn là viên Ngọc, dính bẩn không nhiểm bẩn, những thứ tánh nhơ bẩn chỉ là giả tánh, không phải chân tánh.

Thế là Thái Tử đã tìm thấy bổn lai diện mục của mình, đạt đến cảnh giới Minh tâm kiến tánh, ví như người mất Ngựa đi tìm ngựa và đã tìm thấy con ngựa của mình ở phía trước và đang tìm cách nắm bắt chúng để con ngựa ý mã tâm viên theo mình trở về Cội Nguồn vũ trụ và hiểu ngựa mới hàng phục được ngựa, hiểu khỉ mới hàng phục được khỉ và sợi dây trói ngựa chính là giới và sợi giây trói khỉ chính là Định, món ăn của chúng là tự nhiên, tự nhiên là món ăn thường xuyên, nổ lực siêng năng là điều không thể thiếu, dục vọng cứu dân là điều cần thiết mong cầu. Thái Tử nghe trong tâm hồn lân lân nhẹ nhổm.

Để hàng phục tâm viên ý mã, Thái Tử dùng sợi dây Giới, Định tối cao, ngăn chặn thấy nghe hay biết phân biệt ngoại cảnh lục trần. Lục trần tức là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Thấy nghe hay biết tự nhiên khác với thấy nghe hay biết phân biệt. Thấy nghe hay biết tự nhiên là thấy nghe hay biết bản thể linh giác. Thấy nghe hay biết, khởi tưởng phân biệt là thấy nghe hay biết bọt nước, ý thức khởi tưởng nhận thức phân biệt. Thái tử bỏ cái, thấy nghe hay biết khởi tưởng phân biệt nhận thức của bọt nước, tức là ý tưởng nhận thức huân tập chủng nghiệp của tâm viên ý mã, xưa nay rong ruổi chạy theo lục trần, bám lấy lục trần, buộc phải đi theo ý tự nhiên của ông chủ. Thấy nghe hay biết tự nhiên không cho khởi tưởng, nhận thức, phân biệt Lục trần, tức là nhận thức khởi tưởng phân biệt, sắc, thịnh, Hương, vị, xúc, pháp. Nhờ cắt đứt nhân duyên Lục trần, Lục căn lần lần thanh tịnh, Lục thức lần lần trong sáng, không còn mê muội u tối nữa, theo ông Chủ trở lại Cội Nguồn.
**************


CHƯƠNG 8

PHẦN 3

MƯỜI TÁM GIỚI

 Lục Trần: Sắc - Thinh - Hương - Vị - Xúc - Pháp.
 Lục Căn: Nhãn - Nhĩ - Tỷ - Thiệt - Thân - Ý.
 Lục Thức: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức.

Như vậy Thái Tử tạm thời không cho Lục Thức khởi tưởng phân biệt bám theo Lục Trần. Bằng phương pháp Đại Giới. Cắt đức nhân duyên giữa Lục Thức và Lục Trần.

Nói một cách dễ hiểu hơn, là Thái Tử tạm thời không cho Lục Thức bọt nước Tiểu Linh Hồn của mình. Khởi tưởng phân biệt Lục Trần, bám theo Lục Trần huân tập ái dục. Lục Thức bị Đại giới trói chặt, Định Lục Thức đã an định. Thời lục căn thanh tịnh lần lần trong sạch, Lục căn càng thanh tịnh trong sạch. Thời Lục Thức chuyển thành Lục Huệ. Trong Lục Huệ. Tự nhiên pháp Huệ là cao nhất. Chính là cái thấy, nghe, hay, biết của Tiểu Linh Hồn trở thành cái thấy, nghe, hay, biết Đại Linh Hồn vũ trụ. Cái thấy, nghe, hay, biết của bọt nước trở thành cái thấy, nghe, hay, biết của nước. Cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên không chấp trước, nhất là chấp trước cái tôi cái ta, mà là cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên vũ trụ là mình, mình là vũ trụ, không phân biệt gì cả.  
**************


CHƯƠNG 8

PHẦN 4

GIÁC NGỘ

Nhìn núi non trùng điệp, Chim kêu vượn hú, suối lượng uốn quanh. Hoa chen lá, đá ẩn tàng chen cây Cánh hoa lấp lánh đua nhau thi màu thi sắc. Tùng Bách thi nhau xanh ngắt đua tàng, khoe tán. Đào Mai đua dáng đua xuân. Gió reo cửa Động, nước luồn qua khe, lá cành rung nhẹ, bướm nghe nhạc rừng, nước non cảnh đẹp, suối nhìn thác reo.

Thái Tử xuất thần liên tưởng quan sát Bổng nhiên hội ngộ. Chân giã, giã chân, trong chân có giã, trong giã có chân. Trong bọt nước có bản thể của nước, trong Tiểu Linh Hồn có bản thể của Đại Linh Hồn. Bản thể Linh giác trong sạch vô vi, vô vi mà thường vi, không tánh, không tướng, không ý thức. Khi bản thể Linh giác tiếp xúc với cảnh giới Lục Trần, biến sanh sáu thức, sáu thức này dựa trên ngũ uẩn. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, huân tập nghiệp lực thông qua thập nhị nhân duyên. Rồi trở thành hành trình sanh tử. Có thể nói tốm tắc khái niệm như sau: Chỉ cần phá vỡ nhân duyên của chúng, thời chân tánh thanh tịnh ngay.

Chân Tánh mê không làm chủ được mình luôn chạy theo Tánh thấy, nghe, hay, biết của mình khởi ý phân biệt Lục Trần, luôn làm cho chân tâm không thanh tịnh được, huân tập nghiệp quả luân hồi sanh tử. Chân Tánh mê không làm chủ được mình gọi đó là Vô Minh (1) vô minh sanh Hành (2) vì mê bám lấy Lục Trần khởi ý phân biệt sanh ra Lục Thức (3). Như vậy Chân Tánh là bản thể nước, khởi ý phân biệt sanh ra thức bọt nước, sau thức bọt nước này dựa trên ngũ uẩn, huân tập quả nghiệp thông qua thập nhị nhân duyên, luân hồi sanh tử, sáu thức do vô minh, tánh mê tạo ra, nên sáu thức u mê không khác nào tánh mê cả. Sáu thức từ y thức phản tỉnh nhận thức phân biệt sắc chất, vì thế Danh Sắc sanh ra (4) Danh Sắc Lục Trần sanh ra liền xâm nhập vào ý thức, nhận thức, Lục Nhập (5). Đã có Lục Nhập thời sự tiếp xúc liên tục xảy ra, Xúc (6) đã tiếp xúc liên tục cảm thụ rồi trở thành thói quen Thụ (7) đã trở thành thói quen trì niếu ưa thích ưu ái. Ái (8) cái gì ưu ái ưa thích, thời bảo thủ giữ chặc không buôn ra Thủ (9). Thủ là quả nghiệp của ý thức, nhận thức, quả nghiệp đã có thời nó tiếp tục khởi sanh, dù cho đó là nghiệp dữ hay nghiệp lành, quả nghiệp đã có, Hữu (10) đã kết quả ý thức, nhận thức đủ nhân duyên, thời liền khởi sanh, Sanh (11) đã có sanh thời theo quy luật tự nhiên, thành, trụ, hoại, không. Sanh, lão, bệnh tử. Tử (12).

Thái Tử đã nhận ra sự huyền diệu của bộ máy tâm linh, phải nói là không thể luận bàn cho hết được sự diệu dụng của nó và đây chính là chìa khóa vũ trụ mà ai ai cũng có, tức là bộ mặt thật của chân tâm chân tánh, linh hồn của mỗi con người, và giờ đây Thái Tử đã thật sự làm chủ Linh Hồn của mình, tiến đến mở cánh của Cội Nguồn. Bước vào nhà vũ trụ, làm chủ vũ trụ.

Thái Tử bỏ cái thấy, nghe, hay, biết, phân biệt của thức, bọt nước. Trở về cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên , phản tỉnh ra vô lượng ý giác ngộ, ý thức giác ngộ khởi sanh ra khế hiệp với Chân Tánh. Liền khởi dụng như Lai Tạng Tánh vũ trụ. Phải nói là bất khả tự nghỉ không thể luận bàn được nữa. Sự thấy, nghe, hay, biết tự nhiên của Thái Tử, đưa Thái Tử đến lần lần khám phá hết bí mật sự huyền vi của vũ trụ.

Chỉ trong chốc lác Thái Tử đã đạt đến đỉnh cao của thiền tâm, an trụ vào Chánh Định, Chánh Tư Duy, Chánh Kiến, Chánh Niệm, Chánh Nghiệp, Chánh Tuệ hay còn gọi là Chánh Giác.

Đây nói về Đức Cha Trời Long Hoa Cửu Huyền, ẤN Quang Tối Thắng Như Lai, Lạc Long Quân, Đấng tối cao hiện thân của Đức Tổ Tiên, Đấng chủ quản Linh Hồn, Đấng điều hành bộ máy Huyền Cơ vũ trụ, thấy người con Cả đã đầu thai xuống trần, đang dùng con mắt thanh tịnh cùng Đại Nguyện lực phá vở vô minh che khuất Chân Tánh, làm chủ bản thể Linh giác của mình, thời khen ngợi. Thế mới xứng là con của cha Trời.

Nói về Thái Tử đã đạt đến Chánh giác dùng con mắt thanh tịnh pháp thân cái thấy, cái nghe, cái hay, cái biết bản thể linh giác của nước, không phải cái thấy, nghe, hay, biết phân biệt của thức bọt nước, phen lần bí mật vũ trụ tìm ra Cội Nguồn và mỗi lúc Thái Tử càng tiến xa tiến xâu vào bí mật vũ trụ. Từ đây về sau tất cả mọi biến động. Dù chỉ là chiếc lá rơi, cũng làm tăng thêm sự chứng ngộ Nhìn rõ sự thật huyền ẩn của chúng, bộ mặt thật của nhân duyên và vô thường.Mỗi bước chân của Thái Tử là mỗi bước giác ngộ. Có lẽ cảnh quang nơi đây cũng hiểu Đấng Đại giác ra đời, Đấng Cứu Thế. Nên thi nhau tỏa hương ngào ngạc. Khu rừng cấm bổng chốc rực rỡ như cảnh Bồng Lai. Trước mặt Thái Tử là chiếc Ngai Rồng bằng vàng và chiếc Ngai Phụng chạm ngọc. Nơi đây Kinh Dương Vương cùng Vương Hậu thường ngồi để ngắm cảnh xem hoa, nghe Chim hót hòa mình vào Đất Trời cảnh giới thiên nhiên.

Thái Tử ngồi lên Ngai vàng nghỉ! Có lẽ Vua Cha xem cảnh quang sắc thắm nơi đây bằng con mắt phân biệt, nhận thức cảnh quang để làm vui Còn Thái Tử thì khác. Xem cảnh quan bằng con măt thanh tịnh không phân biệt chi cả. Điều kỳ lạ ở đây Lục Căn, Lục Thức Thái Tử thanh tịnh. Không phân biệt. Thế mà nhận ra tất cả hương vị của mỗi loài hoa. Của mỗi âm thanh dù là âm thanh nhỏ nhất của côn trùng Thảo Mộc.

Điều kỳ lạ này đã đánh thức Thái Tử nhận rõ thêm, Tánh thấy, nghe, hay, biết của nước và tánh thấy, nghe, hay, biết phân biệt của bọt nước, có thể nói sự thấy, nghe, hay, biết thanh tịnh của Chân Tánh, nước, như ánh sáng Mặt Trời, còn sự thấy, nghe, hay, biết phân biệt của ý thức như ánh sáng con đôm đốm mà thôi. Ánh sáng trí huệ Mặt Trời đã xuất hiện, ánh sáng Bình Đẳng trong sáng vô vi, hàng triệu hàng nghìn năm mới xuất hiện một lần.

Thái Tử Hùng Lan hầu như đã nhận ra bản thể Linh giác Chân Tánh vốn trong sạch vô vi, mà thường vi, bất tăng bất giảm, không cấu nhiểm, không mùi vị, không danh sắc, không thọ tưởng hành thức, vì bản thể không cấu nhiểm của Chân Tánh trong sạch vô vi, nên phải tỉnh đo lường phân biệt nhận biết tất cả. Lục Trần, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, dù trôi lăng trong sanh tử Lục Trần vẩn trong sạch không cấu nhiểm, giống như Hoa sen gần bùn mà chẳng nhiểm bùn.

Ánh sáng trí tuệ Mặt Trời của Thái Tử đã phá tan dần từng lớp vô minh. Với hành trình bọt nước tan biến trở lại là nước. Từ mê trở về giác. Từ Giả Tánh trở về Chân Tánh. Làm chủ Linh Giác của mình. Thời chiếc chìa khóa vạn năng đã có trong tay. Chỉ nổ lực Chánh Tin tinh tấn thời sẽ mở tung cánh cửa Cội Nguồn vào nhà vũ trụ. Tìm ra Chủ Nghĩa Đại Đồng. Cứu nhân loại thế gian đang lặng hụp trong khổ đau. Chiến tranh, hận thù, sanh, lão, bệnh, tử. Nhưng có một điều đáng nói ở đây là Mặt Trời xuất hiện ở mùa Đông. Thiên Ấn ra đời khi nhân gian còn chìm trong u minh. Những cơn bão lạc hậu. Mê tín dị đoan, tri giác tối tăm không tiếp nhận được ánh sáng Mặt Trời. Ví như người mù dù ánh sáng Mặt Trời có rọi trúng đỉnh đầu cũng không nhận thấy được. Tuy người mù không thấy ánh sáng Mặt Trời chiếu đến nhưng không vì thế mà ánh sáng Mặt Trời không cứu họ mà còn đem lại cho họ sự sống. Đâm chồi nảy lộc, hòa bình, tự do hạnh phúc. Văn Hóa Cội Nguồn ra đời cách đây năm nghìn năm mở màn cho Thiên ẤN ra đời nên không có Kinh luân truyền lại. Chỉ lấy tâm ấn tâm truyền khẩu cho nhau, rồi đi vào thất truyền. Thiên ẤN thất truyền. Thiên Bút xuất hiện sau năm nghìn năm. Kể từ khi Thiên ẤN ra đời sau 2 nghìn năm kể từ khi Chúa Giê xu ra đời.
**************


CHƯƠNG 8

PHẦN 5

PHÁT HIỆN
NHỮNG CƠ BẢN

Vào thiền phòng đã hơn một tháng, lần này khác hơn lần trước Thái Tử chỉ ngồi yên lặng. Mình là vũ trụ. Vũ trụ cũng chính là mình. Thấy, nghe, hay, biết thanh tịnh, không một niệm khởi niệm dù cho đó là một niệm không. Như như vắng lặng. Đây là một bí pháp Mật Tạng của thiền, định lực phát sanh, Mặt Trời Trí Huệ lần lần xuất hiện, liền phát hiện những huyền bí mà trí thường, mắt thường không thể nào khám phá ra được. Nhân loại phàm trần bị vô minh che mất Chân Tánh, phiền não nhiểu hại nghiệp lực xoay chuyển, luôn luôn lặng hụp trong biển khổ. Chiến tranh, nghèo đói, lạc hậu, ốm đau bịnh tật bám lấy không yên, hết cái khổ này dẩm lên cái khổ khác. Nên Đức Chí Tôn mới đầu thai xuống thế mở ra Thiên ẤN Cội Nguồn. Thái Tử Hùng Lan chính là Đức Chí Tôn đầu thai. Đấng Cứu Thế ra đời. Nên ý chí trí lực có một không hai trong nhân thế.

Thái Tử mỗi lúc mỗi khám phá bí mật của bộ máy Tâm Linh, hàng phục Tâm viên ý mã làm cho Tâm Linh, biển lặng, sóng yên minh tâm kiến tánh mỗi lúc một rõ ràng. Huệ tâm sáng suốt tột cùng, phen lần bí mật vũ trụ, tinh thần lẩn vật chất. Bổng có cơn gió thổi mạnh làm cơ thể như muốn chao đảo. Hầu như cơn gió đánh thức Thái Tử một điều quan trọng.

Đã là con người không chỉ về mặc Tâm Linh không mà còn có cả thể xác. Muốn cứu nhân loại thời đưa nhân loại đến văn minh vật chất lẩn văn minh tinh thần. Vật chất nuôi dưỡng thể xác. Đạo lý dưỡng nuôi Linh Hồn. Thái Tử nghỉ vật chất ư, có vai trò gì trong cuộc hành trình giải thoát. Thái Tử liền chuyển hướng huệ quang khám phá vật chất. Thái Tử nghỉ, thế giới vật chất vũ trụ vô tận vô biên nhưng thật ra chỉ có bốn thể mà thôi.
1: Là Thể Lực vũ trụ.
2: Là Thể Hơi Khí vũ trụ.
3: Là Thể Lỏng Nước vũ trụ.
4: Là Thể Đặc Đất vũ trụ.

Có một thể nữa đó là thể thứ 5 Tinh Thể vũ trụ sự sống của thế giới Động vật, Thực vật, trong đó có thể xác con người.

Thể Hơi Chân Khí là thể trung gian giữa vô hình và hửu hình, giữa vô sắc với hửu sắc. Vì thế sự sống của vũ trụ vật chất cũng như sự sống của con người. Chân Khí Thể Hơi luôn luôn đóng vai trò rất quan trọng trong sự sống con người, sự sống Trái Đất, sự sống vũ trụ.

Thái Tử phân tích sự quan trọng Chân Khí Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc như sau.

Người ta có thể nhịn đói cả tháng cũng không chết. Nhưng nhịn uống một tuần là chết ngay. Nhưng điều đáng nói ở đây chỉ cần nín thở vài hơi là ngủm cuộc đời. Như vậy Thể Hơi Chân Khí đối với sự sống. Thể hơi chân khí không những rất quan trọng trong sự sống mà còn đóng vai trò chủ lực của sức khỏe và trường thọ.

Thái Tử nhìn thấy nhân loại xem chân khí rất thường. Vì chân khí đâu đâu cũng có, không cần tìm kiếm chi cả, hơn nữa họ hít thở không lúc nào gián đoạn mà họ nào có thấy chi đâu. Còn Thiên Tiên, Địa Thiên thời khác hẳn. Tu luyện hít thở thu nạp chân khí, không những trường thọ vô bịnh tật mà còn tích tụ được nhị xác thân, pháp thuật Thần Thông tự tại. Nhân loại phàm tục chỉ hít thở theo quán tính duy trì sự sống. Một liều lượng chân khí vừa đủ để cơ thể sống mà thôi. Còn tập trung tư tưởng để hít thở thu nạp chân khí là một chuyện khác.

Thái Tử dùng huệ nhãn quan sát chân khí thấy rõ ngũ khí, kim khí, mộc khí, thủy khí, hỏa khí, thổ khí, thể hơi đầy khắp không gian chổ nào cũng có. Thái Tử nghỉ rất tiếc càng về sau con người càng làm ô nhiễm ngũ khí này. Chính con người làm hại con người, làm hại sức khỏe, làm hại lục phủ ngũ Tạng của họ, bệnh tật dữ dội. Chân khí vũ trụ nếu đem phân tích thời vô số kể nhưng cốt lại thời hai vế mà thôi. Thanh khí và trược khí. Thanh khí là thể khí không bị ô nhiễm độc hại còn trược khí là khí ô nhiễm độc hại.

Thái Tử nhìn thấy các Thiên Tiên, Địa Tiên luyện chân khí không những giảm đi sự đói khác bệnh tật Trường thọ, trí huệ khai mở, đã thông kinh mạch mà còn làm giảm đi sức ép của vũ trụ. Giảm luôn lực hút Trái Đất, thân thể nhẹ nhàng, thân hình cân đối xinh đẹp mịn màng. Nhất là đối với Tiên Nữ.

Thái Tử nghỉ một đất nước luôn gìn giữ môi trường trong sạch chân khí không bị ô nhiễm, toàn dân ai ai cũng luyện khí, thời làm giảm đi gánh nặng xã hội, về bệnh tật, ngu si, lạc hậu. Đất nước ấy sẽ trở thành đất nước Thần Thánh. Luyện chân khí không những chịu đựng được nhiệt độ cao, cái lạnh cũng không làm hại được. Nếu tu luyện chân khí cao thời khỏi hẳn bệnh tật. Làm cơ bản cho mọi sự Thần Thông biến hóa và Thái Tử đã nhớ lại vì Thiên Sứ đã thể hiện thần thông tự tại trước Thái Tử.

Thái Tử lại dùng Huệ Nhãn quan sát vũ trụ. Thời thấy rõ vô hình điều khiển hửu hình. Muốn khám phá sự bí mật huyền vi vũ trụ. Không có con đường nào khác hơn là phải tu thiền luyện khí. Thu hút Tinh Hoa chân khí vũ trụ tạo lập nhị xác thân. Xác thân tinh khí và thần lực. Nhờ nhị xác thân, thời Chân Tánh mới hiển lộ thần thông trí huệ như ý được. Tiến tới toàn năng toàn giác. Mở ra Thiên Ấn Cội Nguồn.

Thái Tử lại dùng Huệ Nhãn quan sát trên thể hơi chân khí vũ trụ, Thể Lực vũ trụ không đâu là không có, Thể Lực vũ trụ cũng chính là Thần Lực vũ trụ, trên Thể Lực vũ trụ là Linh giác vũ trụ, Linh giác vũ trụ gồm 2 vế, Chân Tánh và Thức Tánh, Chân Tánh ví như nước, Thức Tánh ví như bọt nước.

Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần không phải là để tu luyện chứng Đạo làm Phật Tổ hay vì danh lợi. Mà là Đấng cứu thế, truyền lời dạy Cha Trời xuống chốn nhân gian. Thiên Ấn vũ trụ. Muốn làm được điều này Thái Tử phải vượt qua bao khó khăn, thử thách sáng suốt phen lần từng mối huyền vi vũ trụ. Tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ấn truyền xuống thế.

Muốn làm được việc đó Thái Tử không thể không có nhị xác thân Tinh Khí Thần, do tu thiền luyện khí mà ra. Nhị xác thân là xác thân trung thân giữa vô sắc thân và phàm thân. Vô sắc thân là Thân Thức, Thức Thân, Thần Lực, với thức thân Thần Lực này các vị Đại Bồ Tát đi xuyên qua sắt thép, sành sứ, Kính, Đá xuyên qua quả Địa Cầu không để lại dấu vết, còn nhị xác thân không làm được điều đó, xác thân của Thiên Tiên, Địa Tiên nhị xác thân như trên Kinh đã nói, là xác thân do tu thiền luyện khí mà ra. Lâu hay mau đều do người tu luyện mà thành.
**************


CHƯƠNG 9

PHẦN 1

NẤT THANG ĐẦU TIÊN
CHINH PHỤC VŨ TRỤ

Để tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ấn vũ trụ, Thái Tử bước lên nất thang đầu tiên tập trung ý chí cho cuộc mở màn luyện khí tiến sâu vào bí mật vũ trụ, cảnh giới tối cao của trí huệ. Theo sự nhân biết của Thái Tử, con người là Tiểu Thiên vũ trụ, vũ trụ thu nhỏ mà thôi. Có thể nói một cách dễ hiểu hơn, con người là Tinh Hoa vũ trụ do Tổ Tiên tạo ra bao hàm cả Âm lẩn Dương. Luyện nhị xác thân cũng thế phải biết kết hợp Tinh Hoa Âm Dương của chân khí. Âm Dương giao hóa, kỳ tích phát sanh, nhị xác thân phát triển hình thành. Ẩn tàng trong thi thể xác thịt phàm tục.

Theo tính toán nhận thấy của Thái Tử. ÂM và DƯƠNG ngày đêm, phải có thời điểm giao hợp kết tinh giao nhau sanh sanh hóa hóa.

Thời điểm kết tinh của ÂM DƯƠNG là Tý - Ngọ thời điểm giao hóa của ÂM DƯƠNG là Mẹo - Dậu.

Để tâm ý thanh tinh là nền tản làm phát sanh Thần Lực. Ý trí trở nên mạnh mẻ thu hút chân khí vũ trụ. Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu đưa sâu vào lục phủ ngũ Tạng tích tụ tại Đan Điền. Mỗi lần hít thở theo ý tưởng đưa chân khí vào Đan Điền là mỗi lần tích góp thể lực giảm đi sự đói khác và mỏi mệt. Để tu luyện nhị xác thân mau đạt kết quả Thái Tử tự vẽ hình người. Chấm các huyệt đạo trên người một cách thuần thục. Từ huyệt đạo trọng yếu chủ lực cho đến các huyệt đạo bình thường, 365 huyệt. Gần tương ứng với 365 ngày.

Với tư thế ngồi xếp bằng lưng thẳng đầu hơi cúi, mắt mở hí hí nhìn chót mũi. Hai chân tréo lên nhau, hai lòng bàn chân ngữa lên trời Có lúc Thái Tử ngồi xếp bằng hai chân chồng lên nhau mà thôi, hai lòng bàn tay cũng thế, với tư thế ngồi như thế. Thái Tử hướng tiểu thiên vũ trụ về Đại Thiên vũ trụ. 360 huyệt đạo thông theo hai lòng bàn chân, hai lòng bàn tay và đỉnh đầu. Ngũ thông năm cửa lớn thông thiên của con người.

Có khi Thái Tử đan tréo các ngón tay chồng lên nhau, với tư thế ngồi tu thiền luyện khí của Thái Tử với bao triết lý mầu nhiệm. Những bước đi cơ bản để rồi tiến sâu hơn trên con đường hội nhập chinh phục vũ trụ. Nhờ ý chí cương quyết hơn một tháng đầu Thái Tử dốc hết tâm trí, mọi tạp niệm đều dứt sạch, ngồi kiết già tập trung luyện khí, chỉ thấy cơ thể khỏe hơn. Còn tất cả thời không phát hiện được gì.

Thái Tử đâm lo suy nghỉ, không lẻ ta thấy sai, nên suy luận cũng sai. Phương pháp tu thiền luyện khí còn có chổ chưa hợp lý. Thái Tử để hết tâm trí suy luận lại từ đầu. Không lẻ tu thiền luyện khí đến cả trăm năm mới thành, như các Đạo sỉ tu luyện của các Thần giáo. Không thể được, sự tu luyện của các Đạo sỉ Thần giáo là sự tu luyện lần mò không nắm bắc được sự huyền vi của tạo hóa. Không làm chủ được Linh Hồn, không làm chủ được thức tánh, Chân tánh của mình. Vô minh luôn luôn xoay chuyển, khó mà tiến sâu vào bí mật của Tạo Hóa. Phen lần nhân duyên bí mật đó, trong lúc Thái Tử để hết tâm suy luận lại từ đầu, hầu tìm ra giải pháp những chổ chưa hợp lý. Vô tình Thái Tử nhìn thấy một chồi cây xanh mới mọc ngoài khung cửa, chồi xanh ấy rất lạ hầu như cuốn hút Thái Tử. Thái Tử tò mò tập trung tư tưởng khám phá, cả hàng giờ nào có thấy chi lạ đâu, không có gì thay đổi. Chồi cây vẩn là chồi cây.

Lúc ấy Thái Tử mới thôi kiên nhẩn. Tiếp tục luyện tập, thời gian trôi qua lại thêm 1 tuần nữa, lần này Thái Tử cảm thấy cơ thể hầu như có điềm khác lạ nhưng chưa được rõ ràng lắn. Vô tình Thái Tử nhìn ra chồi cây xanh, thời vô cùng kinh ngạc, chồi cây xanh thêm nhiều lá sum sê. Thái Tử tự hỏi chồi xanh ra lá hôm qua, hay bữa nay? Hay là sự phát triển không dừng rất chậm. Thái Tử như bừng lên giác ngộ phải rồi, sự phát triển của chồi cây rất chậm. Trong một giờ khó nhìn thấy sự phát triển của nó mà phải nhìn hàng tuần, thời mới thấy sự phát triển của nó. Tu thiền luyện khí khác nào phải nhìn hàng tháng hàng năm mới thấy kết quả. Thái Tử nhìn chồi cây sum sê như cảm ơn sự nhắc nhở đánh thức của người.

Đúng lúc ấy có một người xuất hiện, Thái Tử vô cùng ngạc nhiên. Hỏi ngươi đến đây tìm ai? Người ấy lễ phép nói tôi tìm Thái Tử. Thái Tử nghe người ấy nói vô cùng kinh ngạc, hỏi ngươi tìm ta có chuyện gì? Người ấy lễ phép thưa. Nghe Thái Tử là người thông thái, trí huệ vô biên, Cha Tiểu Thần qua đời để lại cho Tiểu Thần vật gia bảo quí hiếm, bảo vật Thần Lửa, khi nào cần thời lấy lửa, nhưng Tiểu Thần tìm mãi không tìm thấy lửa, có người bảo Tiểu Thần thử ma sát vào nhau, Tiểu Thần ma sát mãi chỉ thấy hơi nóng bốc ra mà thôi, cọ qua cọ lại cả năm cũng không thấy lửa, vật lấy lửa coi như là vật Thiên. Người nào làm chủ vật đánh lửa coi như người đó là con của Thần Mặt Trời. Ở vào thời kỳ ấy lửa vô cùng quan trọng đối với con người và có nhiều Thần giáo thờ lửa.

Nghe chuyện lạ Thái Tử tò mò hỏi ngươi có đem theo vật chí bảo đó không? Người ấy nói dạ có, rén cứng vô cùng đưa cho Thái Tử. Thái Tử cầm lấy quan sát một hồi rồi ma sát vào nhau mỗi lúc một mạnh, sự ma sát liên tục của hai thỏi đá đã bốc khói. Thái Tử vận lực lên hai bàn tay ma sát hai thỏi đá tốc độ nhanh mạnh, thời ánh sáng lóc lên tia lửa phát ra dữ dội. Thái Tử đưa chúng vào mồi để cháy, tức thì ngọn lửa bốc lên, nếu sơ ý không cẩn thận sẽ gây ra hỏa hoạn, tàn phá thiêu rụi núi rừng, nhà cửa sự sống của con người và vạn vật. Đốm lửa cháy rừng.

Lửa Âm Dương. Lửa Lòng. Lửa Công Lý Chân Lý. Những thứ lửa mà Thái Tử cần biết cách tạo ra nó, dùng nó để làm lợi ích cho cuộc sống con người, thứ ánh sáng đem về cho nhân loại bao sự sống yên vui hạnh phúc. Thái Tử là nhà khoa học vĩ đại. Luôn luôn khám phá quy luật bí mật sẳn có nơi vũ trụ làm lợi ích phục vụ cho đời sống con người. Thái Tử lấy lửa theo phương thức tự nhiên. Không có sự bí mật Thần Lửa nào cả mà chỉ áp dụng theo phương thức khoa học, khi ngọn lửa đã bốc cháy, Thái Tử nhìn lại người mới đến thời không thấy người ấy đâu nữa. Bổng nghe trên không có giọng hát vọng xuống.
Lửa Lòng, Lửa Huệ, Lửa Âm Dương
Quy luật xưa nay vốn sự thường
Huyền cơ bí mật nào xa lắm
Quanh ta đầy dẫy bí pháp vương.

Thái Tử như người tỉnh mộng, trí huệ bừng khai mở lên một đỉnh cao mới. Thái Tử giờ đây nhìn vào cái gì vật gì, cảnh quang đều nhìn thấy ẩn tàn lời dạy của Đức Cha Trời. Đấng tạo vật  Đấng lập lên tất cả, vũ trụ sự sống chết cùng con người. Đấng toàn năng, toàn giác. Đấng sáng tạo và lập lên tất cả. Sự phát triển của cỏ cây, cũng như cách lấy lửa, làm tăng thêm sự giác ngộ, hiểu rõ về thành quả trên bước đường mình đi. Niềm tin và sự quyết đoán Thái Tử siêng năng tu tập không dừng nghỉ. Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu 4 thời 8 giờ không bỏ sót. Ý chí Thọ tưởng thu nạp dưỡng khí đều đặng đưa sâu tận Đan Điền. Còn những giờ khác Thái Tử luôn trụ tâm thức tại Đan Điền, thở ra hít vào bằng Đan Điền, cứ thế ngày qua tháng lại hơn một năm. Hôm nay Thái Tử kiểm chứng sự thành công hơn một năm đã qua. Thời thấy rõ sự thay đổi trong cơ thể, cũng như các giác quan, nếu đem so sánh với lúc chưa tu luyện khí, thời hai trạng thái khác xa như hai người ở hai cảnh giới khác nhau. Như người ốm nặng và người khỏe mạnh hay nói một cách khác một phàm một Thánh. Sự hít thở Thái Tử giờ đây khác với người thường, không phải do phổi làm chủ mà do Đan Điền làm chủ, phổi chỉ là giai phụ. Mỗi lần tham thiền luyện khí, thời nơi Đan Điền tỏa ra luồn khí nóng lan tỏa ra các huyệt Đạo xung quanh như. Hoang Du, Thủy Phân, Thiên Khu, Đại Cự, Khí Hải Quan Nguyên, rồi lan tỏa rộng ra Phúc Kết, Thương Đạo, xuống Cực Trung lên Trung Quản, Cự Huyết, Cửu Vĩ, lan tỏa ra Thủy Đạo, Xung Môn, Đại Hách Kỳ Môn Khí Xung, lan xuống Khúc Cốt, Hội Âm, lan ra Đới Mạch, Lương Môn, Cự Liêu, Bất Dung, Chương Môn, Nhật Nguyệt, Ngũ Khu. Làm cho toàn phần bụng nóng rang. Rồi lan tỏa khắp châu thân, làm cho thân người nhẹ bổng, tuy hôm nay trời giá rét xuống đến không độ, nước như đóng băng, thế mà Thái Tử không thấy lạnh lẽo chi cả, khi Thái Tử chỉ mặt một chiếc áo mỏng. Thái Tử không cho ấy là sợ là vì hiểu rõ thể lực của mình giờ đây đã khác hẳn hơn trước kia, có thể chịu đựng sự nóng lạnh mà người thường không thể nào chịu nổi.

Đồ ăn thức uống được đưa đến những món cao lương mỹ vị hàm lượng bổ dưỡng cao. Nếu không luyện tập thời rất dễ bị bệnh béo phì, làm tổn thương đến các kinh mạch, nhưng lần lần Thái Tử càng phát hiện là mình không thấy đói khác. Nhất là những món ăn Động Vật dần dần không thích hợp với khẩu vị của Thái Tử. Vì các giác quan đã dần dần trong sạch. Nhất là cơ quan vị giác, khứu giác. Cũng như cơ thể lục phủ ngũ Tạng phản tính khó chịu khi ăn chất Động Vật có lúc dẩn đến nôn mửa, gây khó chịu cho cơ thể. Có thể nói đây là sự phản ứng của nhị xác thân mới hình thành trong cơ thể của Thái Tử. Nếu nhị xác thân của Thái Tử hình thành lớn mạnh thời Thái Tử trở thành người ăn chay, chỉ ăn toàn Thực Vật. Điều này đã làm cho Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ lo lắng cho sức khỏe Thái Tử vì sợ Thái Tử ốm gầy rồi mất mạng, theo quan niệm của nhân gian thường tình. Trường Trai chính là khổ hạnh, nhưng họ có hiểu đâu Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đều coi trọng việc ăn chay, vì ăn chay ẩn tàng nhiều lợi ích. Về mặt tâm linh thời Đại Từ Đại Bi, còn về mặt thể xác không những đẩy lùi bệnh tật mà còn tích tụ Chánh Khí phát Đại Dương Quang, tu luyện mau thành chánh quả. Đó là một trong trăm nghìn lợi ích, còn nhiều lợi ích nữa kể không hết. Sự dư thừa các món ăn hằng bữa của Thái Tử đã làm cho Phụ Vương cùng Mẫu Hậu lo lắng. Sao con lúc này ít ăn như thế hay có bệnh hoạn gì không. Nhưng vì có lời dặn của Thái Tử, không ai được gặp vì gặp như thế không những làm cho Thái Tử mất mạng trong lúc nhập thiền vận hành chân khí mà còn làm cho Thái Tử Động Tâm, tu luyện khó thành chánh quả. Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ không dấu nổi lo lắng trong lòng, liền kêu xão Nữ thị Tỳ hỏi, người thấy sức khỏe Thái Tử dạo này ra sao.

Thị Nữ ngươi thấy Thái Tử dạo này ra sao, nhìn nét mặt lo lắng Quốc Vương, Vương Hậu lo cho Thái Tử không phải là lo cho mình. Nhưng Thị Nữ cảm thấy lòng ấm áp như có cái gì cảm động nghèn nghẹn trong lòng.

Muôn tâu Quốc Vương, Vương Hậu. Con chỉ được phép đem đồ ăn thức uống đến phòng ăn, chừng nào có hiệu lịnh Thái Tử mới được vào dọn dẹp, gần 2 năm nay tiểu Nữ chưa một lần nhìn thấy Thái Tử, thời làm sao tiểu Nữ biết Thái Tử mập ốm thế nào mà kể. Quốc Vương và Vương Hậu Phi nghe xão Nữ thị tỳ nói thế, thời chỉ biết thở dài mà thôi.

Quốc vương nghỉ vì tương lai của non sông Tổ Quốc mà con ta phải chịu bao khổ sở, Cha con xa cách, tuy ở gần mà cách nhau như hàng vạn dặm. Với bao nỗi nhớ thương. Sợ con đau ốm vì dốc sức tu luyện, tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên ẤN vũ trụ, Bình Định Thiên Hạ về một mối. Đẩy lùi chiến tranh, đẩy lùi Lạc Hậu, đói nghèo, mở ra trang sử mới, trang sử công bằng văn minh, bảo tồn độc lập lâu dài, đây là một việc làm vô cùng khó khăn mà từ xưa tới nay chưa có ai làm nổi.

Kinh Dương Vương nghỉ phía trước còn quá khó khăn, đầy dẫy gian nan kham khổ mơ hồ không chút hy vọng. Không biết giờ này đã gần 2 năm con đã lần ra manh mối nào chưa? Để cho con có đầy đủ sức khỏe, thay thế cao lương mỹ vị nem Rồng chả Phụng bằng những Thực Vật quí hiếm, trên núi tuyết, nơi hang sâu, ngoài hang Đảo, dưới biển sâu, để tăng thêm sức khỏe. Mật ong, sữa bò, tổ yến nấu với gạo nếp, uống nước sâm nghìn năm, cọng với Linh Chi, tuyết quả, phải nói đây là những món ăn thức uống quí hiếm trong đời, trợ duyên cho người tu thiền luyện khí mau Đắc Đạo.

Nhờ trợ duyên những món ăn quí hiếm Thái Tử thể lực Chân Khí tăng tiến thần tốc. Mỗi khi tham thiền luyện khí, Chân Khí cuồn cuộn tăng lên như nước biển triều dân, cơ thể nhẹ nhỏm, tưởng chừng như bay bổng khỏi mặt đất, không thấy mệt mỏi chi cả dù thức suốt ngày suốt đêm hàng tháng.

Trải qua một thời gian ngắn chỉ hơn 3 năm Thái Tử đã đạt đến cảnh giới, tam hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dâng. Hiếm thấy trong thế giới tu thiền luyện khí, trong nhân loại từ xưa tới nay. Kinh Dương Vương Cha của Thái Tử là người tu thiền khí rất siêng có hơn 70 năm cũng không hơn được Thái Tử bây giờ.

Đạt đến cảnh giới tam hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dâng. Không phải ngẫu nhiên mà thành tựu mau chóng đến thế mà do cơ thể Thái Tử có nhiều tướng tốt, lại thêm thông minh xuất chúng trí huệ thượng thừa, tu theo phương pháp thượng thừa, cọng với nhiều nhân duyên tốt đẹp khác nữa. Nên mới có kết quả thành tựu nhanh đến nổi ai nghe qua cũng khâm phục, trong thế giới tu thiền luyện khí.

Thái Tử hiểu rõ, con người là Tinh Hoa vũ trụ thu nhỏ cả một sự huyền bí, khám phá bí mật con người là nền tản chổ tựa tiến dần khám phá vũ trụ. Linh giác vũ trụ, vật thể vũ trụ. Linh Hồn con người, thể xác con người, sợi móc xích trung gian để tồn tại, chính là vô cực Chân Nguyên Thần Lực vũ trụ, Thần lực con người. Thế giới vật chất cũng như thể xác con người tồn tại hay tan rã đều liên quan đến Lực này, Vô Cực Chân Nguyên Thần Lực. Vô Cực Chân Nguyên là thể lực vô vi xuyên qua tất cả không để lại dấu vết là đầu dây mối nhợ chuyển hóa hình thành ra thế giới vật chất.

Vô Cực Chân Nguyên, Thần Lực vũ trụ là trung gian nối liền giữa bản thể Linh giác vũ trụ và vật thể vũ trụ, tức là bản thể Linh giác Tổ Tiên và thế giới vật chất, vật thể vũ trụ, mà thế giới vật chất có ba thể, từ bán vô vi đến hửu vi, từ thể hơi đến thể lỏng, thể đặc, có thể nói một cách dễ hiểu, Vô Cực Chân Nguyên, Thần Lực vũ trụ là trung gian nối liền giữa bản thể Linh giác vũ trụ và Chân Khí vũ trụ, siêu vô vi và hửu vô vi. Siêu vô vi là Linh giác vũ trụ. Hửu vô vi là Chân Khí vũ trụ.

Hửu vô vi Chân Khí chuyển hóa thành thể hơi vũ trụ, là trung gian giữa Vô Cực Chân Nguyên Thần Lực vũ trụ và vật chất hửu sắc Thể Lỏng.

Rồi từ vật chất hửu sắc, Thể Lỏng chuyển hóa thành nước, làm trung gian giữa Hửu vô vi Chân Khí thể hơi và hửu sắc thể Đặc. Sự liên quan móc xích, từ vô hình đến hửu hình, từ vô vi đến hửu vi, từ vô sắc đến hửu sắc. Từ Thể Lực đến Thể Hơi đến Thể Lỏng đến Thể Đặc. Sự liên quan tồn tại hay tan rã của bốn thể trên, qua liên kết tiến hóa, chuyển hóa tồn tại hay hủy diệt Thái Tử thấy biết rõ ràng.

Thái Tử hiểu rõ, con người là Tinh Hoa vũ trụ, vũ trụ thu nhỏ, tiểu Thiên vũ trụ. Hiểu Tiểu Thiên vũ trụ là hiểu Đại Thiên vũ trụ, hiểu con người là hiểu vũ trụ, hiểu vũ trụ là hiểu bí mật của con người, hiểu bí mật của con người chính là chiếc chìa khóa vạn năng để mở tung vũ trụ, kho tàng tri thức nhân loại mà Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa thành tâm bảo vệ và gìn giử. Đó chính là Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên ẤN vũ trụ.

Thái Tử tốm thâu Tinh Hoa vũ trụ, bổ sung bồi đắp cho Tinh Hoa con người, đưa con người tiến đến giai đoạn mới, giai đoạn tiến về vũ trụ, hiểu vũ trụ và làm chủ vũ trụ. Tu Thiền luyện khí, tốm thâu Chân Khí vũ trụ, cũng có nghĩa tốm thâu vũ trụ, từ vô vi Thần Lực vũ trụ đến hửu vi hửu sắc vũ trụ cọng thêm sự ăn uống của Thái Tử, đã đầy đủ nhân duyên kết hợp bốn thể, Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc, đưa Thái Tử đến thành tựu nhị xác thân, Tinh khí Thần mau chóng. Nhị xác thân đã hình thành, thời những bí mật vũ trụ, bí mật con người lần lần hiển lộ. Dẩn con người từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, hiểu con người mới làm chủ được con người. Hiểu xã hội mới làm chủ được xã hội. Hiểu vũ trụ mới làm chủ được vũ trụ. Công năng của tu thiền luyện khí, thời người tu thiền luyện khí mới thu lượm gặt hái thành quả mau chóng được.

Điều đáng nói ở đây muốn tu thiền luyện khí có hiệu quả cao, thời phải làm chủ được tâm của mình, được ý của mình. Tức là hàng phục Tâm viên, ý Mã, Thân Tâm thanh tịnh, chăm chỉ tốm thâu Chân Khí và giữ Chân Khí tại Đan Điền. Tâm Điền - Khí Điền - Đan Điền. Là mật tạng vũ trụ. Ý thức làm chủ tam điền này. Thời tu thiền luyện khí thành tựu mau chóng. Nhờ thành tựu nhị xác thân mau chóng. Vì thế con người cũng tiến tới đỉnh cao mau chóng, tiến lần tới những nất thang làm chủ vũ trụ. Thái Tử hiểu rõ trong thế giới Động Vật có đến 8 muôn 4 nghìn loài, chỉ có loài người là Động vật cao cấp mà cũng chỉ có loài người mới có khả năng làm chủ vũ trụ. Trở về với Đấng Ông Cha. Đấng tạo lập lên vũ trụ. Tạo lập lên con người. Tốm thâu Tinh Hoa Chân Khí vũ trụ, được rót vào cơ thể con người. Tức thời làm tăng thêm sức mạnh, kể cả sức mạnh Thần Lực, Thể Lực, Ý Chí, mọi hiện tượng bắt đầu thay đổi, đẩy lùi đói khác, bệnh tật, nóng lạnh của thời tiết, càng lúc càng rõ rệt. Khi tu thiền luyện khí kết quả thành tựu lên cao. Không những thế người tu thiền luyện khí làm cho huyệt Đạo càng ngày càng thông suốt, da dẽ hồng hào tăng tuổi thọ, tráng kiện về thể xác, minh mẩn về tâm hồn, phán đoán chính xác, giải quyết mau lẹ. Đó là ưu điểm của người tu thiền luyện khí. Thái Tử nghỉ một dân tộc văn minh, thời dân tộc đó văn minh vật chất phải đi đôi với văn minh tinh thần, thời dân tộc đó mới thật sự văn minh. Con người muốn có hạnh phúc trọn vẹn, phải biết tu dưỡng thể xác, cũng như tu dưỡng tinh thần, nếu không phải thế thời khó mà tìm thấy hạnh phúc trọn vẹn.

PHẦN HỎI ĐÁP

Hỏi: Đấu tranh giải phóng dân tộc ra khỏi áp bức Độc Quyền, trả lại quyền tự do, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc có phải là Đại Từ Đại Bi không?

Đáp: Nếu làm được như vậy đúng là Đại Từ Đại Bi. Còn nếu giải phóng dân tộc ra khỏi áp bức Độc Quyền tàn bạo, rồi lên cẩm quyền cai trị không những không trả lại quyền tự do, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc, thời cuộc giải phóng đó đối với dân mà nói là cuộc chiến tranh phi nghĩa, được là Vua, thua là giặc, dân vừa thoát ra khỏi hang cọp, liền rơi vào miệng sói và sự việc này cứ lặp đi lặp lại hai nghìn năm rồi. Một dân tộc mà mang hai chữ Đồng Bào thời dân tộc đó chỉ sống theo Hiến pháp, Luật pháp giữ nước và dựng nước mà thôi. Hiến pháp Đại Đồng, Luật pháp Đại Đồng, Quyền Bình Đẳng, Quyền tự do, Quyền mưu cầu hạnh phúc mới thật sự thể hiện đầy đủ đi vào đời sống con người.

Hỏi: Thế nào là Đạo Lớn?

Đáp: Đạo là con đường để đi, nếu đó là con đường Văn Hóa Cội Nguồn, Văn Hóa Đại Đồng. Thời đó chính là con đường lớn, Đại Đạo ra đời. Không phân biệt Đảng phái, Đạo giáo, Tôn giáo, màu da chủng tộc, giàu nghèo, Tà Chánh, dốt ngu, Thiện ác đều đi được cả. Mỗi bước chân là mỗi bông hoa mùa xuân nở theo chân của họ.

Hỏi: Thế nào là Đức Lớn?

Đáp: Suốt đời vì nhân loại nhưng không cầu bổng lộc gì cả. Phi ân bất cầu báo, chỉ sống theo lòng từ bi bác ái, thương nhân loại khốn khổ, luôn ở ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác. Những kẻ bỏ sức ra một muốn lấy lại mười lúc nào cũng vì ngôi cao bổng lộc. Quyền thế và Địa vị, lối sống như vậy chỉ vì danh vì lợi vì chức vì quyền. Sống trên mồ hôi, nước mắt xương máu của dân, những kẻ như vậy dù giàu có đến đâu, quyền lực đến đâu cũng chỉ là kẻ thất Đức mà thôi.

Hỏi: Thế nào là người biết?

Đáp: Người hiểu biết là người thấy thiện nên theo, thấy ác nên bỏ. Tôn thờ Chính Nghĩa non sông Tổ Quốc Văn Hóa Cội Nguồn. Tôn trọng người chính là tôn trọng mình, sống Bình Đẳng lợi ích cho Tổ Quốc trên lợi ích cá nhân. Hạnh phúc thiên hạ cũng chính là hạnh phúc của mình, người có ý tưởng vì nhân loại chính là vì mình sống giản dị dù ở địa vị cao hay giàu sang phú quí. Người như thế chính là người Đại hiểu biết.

Hỏi: Như thế nào là người giác ngộ?

Đáp: Hòa mình tất cả hết thảy các tầng lớp xã hội nhưng trụ vững lòng thanh tịnh sống vì Chính Nghĩa không sống theo danh lợi chạy theo danh lợi. Không vì thế mà danh lợi đánh mất mà càng ngày càng lớn, ví như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, sống trong danh lợi mà không nhiểm danh lợi. Những người nào vì nhân loại, không vì mình và cụ thể nhất là xem qua hành động của họ như Quốc Tổ Vua Hùng, như Phật, như Chúa chẳng hạn. Đó là những người Đại giác ngộ.

Hỏi: Thế nào là người ngu?

Đáp: Những kẻ thường cho mình có trí nhưng làm hại non sông Tổ Quốc, làm hại Đồng Bào anh em, làm trái lại lương tâm. Không rõ sau khi chết Linh Hồn mất hay còn, cứ làm bừa, mãi sa chân vào con đường tội lỗi, để rồi nhận lấy hậu quả thê thảm, người như thế khác nào người mù, trí mù. Không trở thành kẻ ngu mới là chuyện lạ.

Hỏi: Thế nào là tư tưởng lớn?

Đáp: Những người phát Đại Nguyện đều là những người có tư tưởng lớn, Quốc Tổ Vua Hùng là người có tư tưởng lớn, Quốc Tổ Vua Hùng phát nguyện rằng. Ta nguyện giải thoát tất cả sự thống khổ, khổ nô lệ, nô lệ bạo lực cửa quyền, nô lệ kiến thức, khổ đói nghèo, khổ lạc hậu, khổ sanh, lão, bệnh, tử, làm cho nhân loại thật sự tự do thật sự hạnh phúc. Đại Đồng Bình Đẳng ai ai cũng thể hiện đầy đủ những quyền mà Tổ Tiên Đức Cha Trời đã ban cho họ, đầy đủ trí tuệ, không có sự bí mật nào mà không biết, không có sự huyền bí nào mà không thông. Dù cho đó là sự huyền bí quá khứ lúc chưa sanh vũ trụ hoặc suốt vị lai vũ trụ bị hủy diệt và sanh vũ trụ mới và mỗi Linh Hồn tự làm chủ lấy mình. Làm chủ vũ trụ an vui tự tại. Nếu ta không đưa nhân loại tới cảnh giới đỉnh cao như vậy, thời ta chưa hội nhập vào ngôi vị Chánh Đẳng, Chánh Giác, vẩn còn tiếp tục là Đấng Cứu Thế. Tùy nhân duyên mà hiện thân hoặc đầu thai ra, ta lúc nào cũng theo sát nhân loại, lập ra nhiều phương tiện để cứu khổ cứu nạn, đưa nhân loại đến bở giải thoát, trở thành Chánh Đẳng, Chánh Giác, ngôi vị Chí Tôn.

Tư tưởng lớn trong Chính Nghĩa không phải là tu tưởng xưng hùng xưng bá, đưa nhau vào con đường máu đổ đầu rơi, oan oan tương báo, nợ nợ đáo đầu, hận thù chồng chất như non như núi. Đó chỉ là tư tưởng của con người cuồng vọng háo danh, háo lợi, lợi dụng Chính Nghĩa phục vụ cho lòng tham vọng của mình, lòng tham vô đáy, vơ vét của cải, vơ vét quyền lực bao nhiêu cũng không đủ, trở thành kẻ Độc ác, Độc quyền, Độc trị mà nhân loại là nạn nhân của những con người này.
**************

HẾT QUYỂN 2

0 nhận xét:

Đăng nhận xét