QUỐC BẢO CHÂN KINH
VĂN
LANG
CHIẾN
SỰ
1
THIÊN ẤN THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI
2005
Đinh Hùng Chung
QUYỂN 3
PHẦN 29
Hừng đông trổi dậy những giọt sương đêm còn nằm trên mái lá,
thưởng thức sự yên bình của quê hương non sông Tổ Quốc. Như chợt nhìn ra tia
nắng, giọt sương la lên kìa tia nắng sớm đã trở về trái đất, chúng ta hãy về
trời thôi thế là các giọt sương lần lần biến mất làm chiếc lá ngơ ngác như vừa
trải qua một giấc mơ ánh bình minh đã tràng về đầy ắp khắp xốm làng, núi non,
sông, hồ, biển cả. Một màu vàng hồng rực rỡ xa xa vang rền vó ngựa.
Trên thành cao Thục Chăm cùng các quan tướng nhìn về hướng Tây Bắc
khói bụi mịt mờ, lờ đờ một con Mãng Xà lúc ẩn lúc hiện, ngoằn ngoèo uống lượng
mỗi lúc một gần, mỗi lúc một hiện rõ, thì ra đây là giặc Ân đông như kiến kéo
dài uống khúc hơn 10 dặm người ngựa xe cộ mịt mù, rầm rầm rộ rộ lao thẳng về
thành Tây Dương Châu. Đến lúc này Thục Chăm mới thở phào nhẹ nhổm quân Ân cũng
không đông hơn quân ta là mấy có lẻ 11-12 vạn quân là cùng, chúng ta cứ thủ
thành xem giặc làm gì được ta. Thế là Thục Chăm ra lịnh binh tướng sẳn sàng
chiến đấu một còn một mất với giặc.
Khí thiên ung đúc chí dân ta
Truyền thống anh linh Đạo một tòa
Con Hồng Cháu Lạc nào chùn bước
Dù cho thế giặc mạnh càn qua
Gươm báu Tiên Rồng còn bén ngót
Bừng lên khí phách tiến xông pha
Sấm dậy trời Nam rền đất Bắc
Quét sạch ngoại xâm khỏi Sơn Hà.
Đây nói về Chu Công Minh theo lịnh của thống soái Ngạc Sùng Cảnh
lảnh đạo thống lảnh hơn 10 vạn quân tiến đánh thành Tây Dương Châu, trên đường
đi bí mật để lại quân binh mai phục ở những nơi hiểm yếu, bảo vệ đường giây
liên lạc thông tin cũng như sự an toàn khi rút lui, chỉ còn 9-10 dặm nữa là tới
thành Tây Dương Châu thời trời sắp tối. Chu Công Minh liền cho quân dừng nghỉ,
bàn kế sách đánh thành Tây Dương Châu. Thời có một tên quân thám báo trở về
dẩn theo một tên mặc đồ đen, tức thời hàng chục con mắt sáng quắc của các quan
tướng giặc nhìn chòng chọc vào người mặc đồ đen. Thấy những cái nhìn như muốn
ăn tươi nuốt sống, người áo đen không khỏi sởn ốc nổi da gà. Tên thám báo quỳ
gối theo nghi lễ nhà binh trước Chu Công Minh nói, bẩm chủ soái trong lúc thuộc
hạ đi thi hành nhiệm vụ bám sát theo dõi sự động tỉnh của thành Tây Dương Châu
thời thấy tên này từ lối bí mật thành Tây Dương Châu lao ra, thuộc hạ theo sau
định ra tay nhưng thấy tên này cứ nhắm mắt hướng Tây Bắc lao đi hình như muốn
gặp chúng ta thì phải, thuộc hạ liền ra mặt gạn hỏi thời đúng như vậy, tên nầy
nói có điều cơ mật muốn gặp Chủ Soái. Chu Công Minh hỏi, ngươi tìm ta có chuyện
gì? Người áo đen liền lấy phong thơ mà Hửu Tài gởi cho Chủ Soái tướng giặc. Nội
dung thơ như sau: Hửu Tài tôi xưa nay thường qua lại buôn bán với quý
Quốc, Tần, Sở, Hồ, Hàn là chổ thân quen. Kẻ thức thời cũng xu theo thời cuộc
chim khôn tìm cây mà đậu, người khôn tìm chúa để thờ, vận đen nước Văn Lang đã
đến, cơ nghiệp hàng nghìn năm thịnh trị Văn Lang đã hết đâu đó cũng là quy luật
vật đổi sao dời, suy thịnh, thịnh suy khó mà thoát khỏi. Cơ nghiệp Văn Lang sắp
mất, trở thành cơ nghiệp nhà Ân. Tìm chủ mới để thờ dâng lên chút công nói rõ
cơ mật tình thế ở đây. Ba anh em nhà Tư Thục chỉ có Thục Chăm là lợi hại còn
hai người kia cũng thường, Thục Chăm là người đa mưu trúc trí không bao giờ cho
biết quân số, đã phân chia lực lượng nhiều ngã trong thành, ngoài thành nơi đâu
thì tôi chưa rõ. Để hại được Thục Chăm không phải dễ nhưng sự đời Đao Kiếm dễ
tránh, ám khí khó phòng, nội giặc lại càng khó phòng hơn huống chi quan tướng
có ý làm phản, thời nguy hiểm khó lường, nhất định người bị hại khó mà lọt
lưới. Để có kết quả như ý nên tôi sắp xếp thiết đãi các quan tướng, đầu độc
chúng tốm luôn một mẻ chẳng sót một người. Để tránh khỏi sự hồ nghi nên khi
chất độc vào người một ngày đêm mới phát tác, làm tê liệt thân người sau đó xây
xẩm mặt mày, ọi ra máu rồi chết, để tránh khỏi những sự cố xảy ra bắc trắc
ngoài ý muốn Chủ Soái cho một số cao thủ theo chân mầm họa theo lối bí mật vào
trong thành giã làm quân lính quan phủ tiếp cận hạ thủ Thục Chăm khi Thục Chăm
phát độc. Quân Văn Lang như rắn mất đầu tha hồ Chủ Soái muốn làm gì mà chẳng
được với công lao ấy ngài định thế nào, tôi đang chờ đợi sự hồi âm của ngài cho
tôi được an lòng Hửu Tài.
Xem xong Chu Công Minh không nói gì chỉ đưa cho quan tướng cấp cao
đọc. Ôn Gia Hầu là con người phải nói là đại thâm hiểm nhưng đọc qua nội dung
lá thư cũng phải lắc đầu nói rằng, bổn tướng thuộc hạ thua kém con người nầy
xa. Chu Công Minh nghỉ lúc này cần chó để săn, thời cho ăn những món ăn béo bở,
hết mồi để săn thời thịt, liền viết nội dung phong thơ béo bở nhưng không
nhiều, để cho con chó khỏi nghi ngờ nội dung hồi âm thơ như sau.
Chủ trương của Chúa Công là đánh người chạy đi, không đánh người
chạy lại, không phân biệt địch hay ta, dân Nam hay dân Bắc hể lập công với nhà
Ân đều trọng thưởng, công lớn thưởng lớn, công nhỏ thưởng nhỏ. Các quan phủ qui
hàng thời chức nào giữ theo chức nấy có lên chứ không xuống. Chu Công Minh nói
với người áo đen, tại sao tên người là mầm họa? Tên áo đen nghe Chu Công Minh
hỏi sợ hạ xanh mặt nhưng cũng trả lời, Thuộc hạ vốn họ Mầm, họ nầy rất ít nghe
đâu khi sinh ra thuộc hạ, cả nhà bị dịch mà chết, chỉ còn lại bà vú nuôi, nên
đặt tên cho thuộc hạ là Họa và từ đấy thuộc hạ có tên là Mầm Họa. Chu Công Minh
nói à ra thế, nếu việc nầy thành công ngươi và chủ ngươi sẻ được trọng dụng
khen thưởng sung sướng cả đời. Người áo đen vâng dạ lia lịa sau đó cùng mấy
mươi tên lính giặc Ân có võ công cao cường biến mất trong đêm tối. Nói về quân
Ân rầm rầm rộ rộ kéo đến thành Tây Dương Châu, bao vây lớp trong lớp ngoài
trùng trùng điệp điệp nhưng chưa vội tấn công mà chỉ hò reo la hét chửi rủa
thách thức mà thôi. Thục Chăm có vẻ ngạc nhiên khả nghi có điểm khác lạ này.
Trời càng lúc càng trưa mà chỉ thấy giặc Ân bày binh bố trận thị oai khêu khích
chọc tức. Bỗng thấy quân Ân biến động hình như là sắp tấn công. Ồ không phải
giặc đang làm gì thế, hình như là đang điều động quân binh. Chu Công Minh nhìn
mặt trời rồi ra lịnh.
Ôn Gia Hầu nghe lịnh: Có thuộc hạ, tướng quân điểm 1 vạn
quân trấn thủ phía Nam hể thấy quân Nam kéo đến là xông ra tấn công. Tuân lịnh.
Lâm Phát Nhì nghe lịnh: Có thuộc hạ, tướng quân điểm 1 vạn
quân trấn thủ hướng Đông hể thấy quân Nam kéo đến là xông ra tấn công. Tuân
lịnh.
Hồ Thế Gia nghe lịnh: Có thuộc hạ, tướng quân điểm 5 vạn
quân chuẩn bị thang giây các dụng cụ phương tiện leo tường, đội quân thiên xạ
yểm trợ. Tuân lịnh.
Lâm Phát Nhất nghe lịnh: Có thuộc hạ, tướng quân điểm 3 vạn
quân tấn công vào cổng chính. Tuân lịnh.
Còn các tướng lỉnh khác chỉ huy 2 vạn quân tiếp ứng bổ sung khi
cần thiết. Sự căng thẳng từng giờ từng phút, chờ giặc Ân tấn công là quân Văn
Lang đi vào tử chiến. Quân Ân la hét chúng ta xông lên làm thịt những con bò
con dê đầy ngu ngốc này tiến lên, tiến lên.
Các quan tướng quân Văn Lang tức khí đâm trào làm chất độc mau
phát tác. Mới sang giờ Mùi các quan tướng đang ra sức chỉ huy, bổng mặt mày xây
xẩm, có người đã ọc máu ra, độc có độc các tướng la lớn. Thục Chăm thất kinh
hỏi độc độc ở đâu. Các quan tướng cố gượng đứng dậy, chúng ta đã bị đầu độc.
Cái gì? Các tướng nói lão Hửu Tài đã làm phản, đầu độc chúng ta. Thục Chăm như
chợt hiểu thét lớn, giết ta phải giết Lão đồ cầm thú vì tức giận quá mức làm
cho chất độc phát tác mau lẹ, Thục Chăm xây xẩm mặt mày cố gượng cho khỏi ngã.
Khi ấy thằng con lớn của Hửu Tài xuất hiện cùng với mười mấy tên cao
thủ giặc Ân, Thục Chăm trợn mắt rút Kiếm lao tới chém liền một nhác xuống đầu
thằng con lớn của lão hét lớn quân lính đâu giết hết những tên phản phúc này
cho ta. Chỉ nghe choang một tiếng Thục Chăm dội ngược té ngữa, người áo đen
cười ha hả nói, đồ con lợn hãy về chầu Diêm Chúa đi, liền bước tới kết liễu
mạng sống của Thục Chăm khoan đã ngươi nghỉ đi, để ta kết liễu tên ngu ngốc này
cho, thì ra thằng con lớn, tên Hai Nháo đây là biệt hiệu riêng người đời đặc
tên cho gã. Nhưng lúc nầy không Nháo chút nào vì sợ tên áo đen Mầm Họa lập đại
công là tiêu diệt được Chủ Soái nên ra lịnh cho Mầm Họa dừng tay, để gã giết
Thục Chăm khi Thục Chăm đã nằm gục dưới đất không còn sức để chống trả, chỉ cần
xuống tay một cái là gã nuốt trọn công lao nầy, với bộ mặt đáng ghét, trán
khỉ, mặt rổ, tai chuột, lỗ mũi tẹp lép rộng hoát hứng mưa, cặp mắt lương ti hí,
nhớn nha nhớn nháo, tay cầm Kiếm uốn éo như con rắn đi tới chổ Thục Chăm ngã
quỵ đứng dậy không nỗi, gã cười đắc ý dang tay lấy sức chém xuống cổ Thục Chăm.
Không ngờ Thục Chăm thân hình chuyển động nhanh như tia chớp ánh Kiếm đã chớp
lên, một cái đầu bay đi lông lốc, cái đầu ấy không phải của Thục Chăm mà là cái
đầu của Hai Nháo tên phản Quốc. Tên áo đen kinh hoảng nghỉ Hai Nháo đã chết
thay cho gã, tên áo đen chỉ Thục Chăm ra lịnh hãy giết tên đầu đảng ấy cho ta,
tức thời mười mấy tên cao thủ giã làm quân Văn Lang xông tới bằm Thục Chăm.
Thục Chăm đứng dậy chỉ Kiếm về những tên giặc giã quân Văn Lang, quân đâu tiến
lên giết hết những tên phản nước cho ta. Thục Chăm đã ra lịnh rồi nhưng quân
lính Văn Lang không hiểu địch ở đâu nên chưa thể tấn công được, lần nầy thì
khác quân Văn Lang đã nhận ra địch liền ào ào xông tới tấn công, tấn công như
vũ bão, tức thời mấy chục tên giặc Ân nữa ra mặt, cuộc chiến vì thế mà khốc
liệt, mấy mươi tên cao thủ giặc Ân chống đở không nỗi lần lượt ngã gục. Đang
lúc tình thế lộn xộn nhanh hơn con sóc có một người cõng Thục Chăm trốn mất.
Nói về Chu Công Minh nhẩn nại chờ đợi đến khi nhìn thấy binh lính
trên thành lộn xộn thời biết thời cơ đã đến liền ra lịnh tấn công, thế là quân
reo dậy đất, gươm giáo dậy trời, cổng thành đã mở giặc Ân tràng vô như nước lũ,
thang dây đã bắt quân Ân leo lên như Kiến. Nhưng quân Văn Lang không vì thế mà
sợ hãi, tuy rắn mất đầu nhưng vẩn quyết tử xông lên, mỗi người là mỗi vị tướng
xông trận, đó là truyền thống của nền Quốc Đạo dân tộc về điểm này quân Ân
không bao giờ ngờ tới vì thế mà giặc Ân phải trả cái giá đắc đỏ trước khi thắng
trận.
Kìa chiến trận rền vang không đứt
Tiếng xung phong gầm thét trời Nam
Hỡi hiếu trung hỡi cháu con
Quyết cùng lũ giặc mất còn tại đây
Kìa lũ giặc phơi thây lớp lớp
Hơi vẫn còn tiến tới xông lên
Xả thân vì nước vì non
Giáo cuồn Kiếm cuộn thét vang đầu thù
Kìa chiến trận đến hồi kết thúc
Hãy xông lên vùi xác giặc Ân
Đời chết chỉ chết một lần
Chết cho Tổ quốc sống còn về sau
Hỡi Tiên Rồng cùng nhau tử chiến
Vì nước non cống hiến cuộc đời
Cho non cho nước sáng ngời
Cho nền Quốc Đạo muôn đời nở hoa
Nào ta hát bài ca bất khuất
Nào xông lên vùi lấp ngoại xâm
Hiếu trung tỏa rạng Dương Quang
Danh rền Đức dội rền vang muôn đời
Ở đời ai mãi sống đời
Chết cho Tổ Quốc muôn ngời sáng lên
Quê hương đầy ắp mùa xuân
Chủ quyền Độc Lập lẩy lừng năm châu
Hồn tử sĩ về chầu Quốc Tổ
Công vì nguồn, muôn thuở tươi xanh
Trả ơn Tổ quốc đẹp lành
Trả ơn dưỡng dục, sanh thành tiến lên
Giặc Ân ngã xuống một tên
Chiến trường nở rộ một thiên sử vàng
Kìa nguồn Cội Đạo Tràng đã mở
Nào anh em quyết tử tiến lên
Xông vào tiêu diệt ngoại xâm
Xông vào tiêu diệt giặc Ân quân thù
Hỡi Đồng Bào hỡi Đồng Bào
Tay gươm tay giáo ta nào xông lên
Ta nào xông lên, ta nào xông lên.
**************
PHẦN 30
Đây nói về hai anh em nhà Thục Vương, Thục Liêu, Thục Châu. Theo
lịnh của Thục Chăm mỗi người 2 vạn 5 nghìn quân phục kích cách thành Tây Dương
6-7 dặm ở hướng Đông và hướng Nam. Khi có lịnh pháo bắn lên thời xua quân tấn
công, trong thành đánh ra, ngoài thành đánh vô, kẹp quân Ân vào giữa để thủ
tiêu. Thục Liêu, Thục Châu đang từng phút, từng giây chờ đợi giặc Ân đến, chờ
đợi loạt pháo trên thành bắn lên, nhưng chờ hoài không thấy, khi cuộc chiến xảy
ra mấy canh giờ vang động núi rừng, Thục Liêu, Thục Châu hồi hộp lo lắng, thời
nghe tiếng vó ngựa rồm rộp từ xa vọng lại, thì ra tên thám báo vội vã trở về.
Nhìn bộ mặt hớt hãi của tên thám báo thời Thục Liêu cũng như Thục Châu đã linh
cảm một điều tồi tệ xảy ra rồi. Nhìn bộ mặt hớt hãi của tên thám báo cánh Đông,
cánh Nam tuy có trước sau nhưng đồng trả lời như nhau. Bẩm tướng soái quân Ân
đã chiếm thành Tây Dương Châu rồi, Thục Liêu, Thục Châu thất kinh thét lớn tất
cả chuẩn bị chiến đấu.
Nói về Thục Liêu, Thục Châu nghe tiếng quân reo dậy đất, Đao Kiếm
dật trời, chờ mãi chờ mãi không thấy pháo hiệu bắn lên, hết giờ mùi đến giờ
thân liền cho thám tử dọ thám thời ôi thôi thành Tây Dương Châu đã bị giặc
chiếm gần hết, tiếng gươm Đao giáo mác cũng giảm dần. Thục Liêu. Thục Châu tức
tốc kéo quân tới tiếp viện khi còn cách thành nữa dặm, quân Ân giăng hàng ngan
trùng trùng lớp lớp chận đánh hai cánh quân cứu viện từ Đông Nam kéo tới. Nhìn
thấy thành Tây Dương Châu, cờ xí quân Ân tung bay phất phới, không nói cũng
hiểu là 5 vạn quân thủ thành Tây Dương Châu đã bị quân Ân nướng sạch rồi. Thục
Chăm không biết sống chết ra sao hay đã cùng chung số phận với anh em binh
lính, Thục Liêu, Thục Chăm nước mắt tuôn trào. Lòng căm thù giặc sùng sục sôi
lên liền chỉ gươm vào giặc gầm thét xông lên tấn công, tức thời quân Văn Lang
hò hét ào ào xông tới xáp trận ầm ầm. Nhưng quân Ân đã lường trước trận pháp ăn
nhịp tiến thối biến hóa vô cùng, quân Văn Lang khó mà làm chi được, càng đánh
càng tổn thất nặng nề. Thục Liêu ức khí giục ngựa xông tới chém quân Ân như
chém chuối, bỗng tiếng quát như sấm, Nam tặc xem Đao pháp của ta đây, loáng
một cái tướng giặc đã chận đầu Thục Liêu với đường Đao hung hiểm lạ thường
chém xuống đầu Thục Liêu như thát đổ. Thục Liêu đã quyết liều mạng nên sống
chết chẳng coi ra gì, dốc sức bình sanh ra đở, chỉ thấy thương Đao chạm nhau
tóe lửa đùng đùng ầm ầm đinh tai nhức óc. Thục Liêu càng đánh càng hăng càng
lúc càng dữ dội, đến khi nghe quân reo dậy đất, ngựa hí vang trời làm chấn động
cả chiến trường, thì ra quân Ân từ thành Tây Dương túa ra đông như kiến bao vây
quân Văn Lang, tình thế vô cùng nguy hiểm, bỗng có vị tướng la lớn tướng quân
chạy mau, Thục Liêu chợt tỉnh cơn hăng máu chém bừa một thương quay ngựa chạy dài
miệng hô rút, quân tướng thi nhau chạy thục mạng, quân Ân rượt đuổi chém thôi
là chém.
Nói về tướng quân Thục Châu cũng chẳn có gì khá hơn, đang chiến
đấu hăng say, thấy quân Ân từ trong thành kéo ra mỗi lúc mỗi đông thời hiểu
ngay nguy cơ ập đến, liền đánh tới tấp làm tướng giặc lính xính, bất thình lình
quày ngựa bỏ chạy miệng hô rút, nhắm hướng Đông Nam chạy thục mạng. Đến khi
chạy không được nữa mới hay mình đã lạc vào rừng, không hiểu là mình đang ở
đâu, phần thì trời sắp tối, tiếng hổ gầm, sói hụ nghe mà rợn người, cũng may là
quân Ân không rượt theo, chém giết 4-5 dặm rồi thu quân trở lại thành Tây Dương
Châu.
Nói về Chu Công Minh ra quân thắng liền hai trận, chiếm được thành
Tây Dương Châu thời còn gì sung sướng hơn, liền cho người điểm lại hao bao
nhiêu binh lính, không bao lâu thời có vị tướng vào báo. Bẩm chủ soái quân ta
đã tổn thất hơn 3 vạn chỉ còn chín vạn. Nghe con số tử vong như thế, Chu Công
Minh thở dài nói, thường xưa nay nơi chiến trận tướng chết rắn mất đầu binh
lính liền tan rả, có số đầu hàng không còn sức để chống trả. Không ngờ quân Văn
Lang lợi hại như vậy, kiên cường anh dũng đến thế, chỉ còn hơi thở là chiến
đấu, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, nếu chỉ huy kém cỏi thời tổn thất còn
nặng hơn nữa có khi một chọi một cũng chừng.
Không hiểu tinh thần chiến đấu ấy từ đâu ra, không thấy một tên
nào đầu hàng cả, không lẻ quân Văn Lang đã đạt đến trình độ Thánh Chiến. Hồ Thế
Gia nói, bẩm Chủ Soái đúng vậy đúng vậy, Chủ Soái quên rồi sao, đó là sự lợi
hại của nền Quốc Đạo Tiên Rồng, một thứ văn hóa Truyền Thống chỉ nghe đến đã
thấy ngán.
Chu Công Minh nói, nếu chúng ta giành lấy được nước Văn Lang thời
phải xóa sổ nền Quốc Đạo Tiên Rồng dân tộc này, một nền Quốc Đạo vô cùng nguy
hiểm cho chúng ta, nơi nào có ngọn lửa Tiên Rồng thời nơi đó phải dập tắc ngay.
Hồ Thế Gia nói, Chủ Soái nói phải muốn cho dân Nam ngu dốt ta phải dập tắc ánh
sáng chân lý, ngọn lửa Tiên Rồng thời coi như dân Nam đã lạc vào cảnh tối tăm,
thời ta nói gì mà chẳng nghe, ta sẻ cho dân Nam cảnh nồi da nấu thịt. Anh em,
dòng tộc, Đồng Bào con cháu Tiên Rồng tàn sát chém giết lẫn nhau. Ta làm ngư
ông đắc lợi, tiêu diệt Văn Hóa Cội Nguồn, Quốc Đạo Tiên Rồng nền Hiến Pháp Văn
Lang phải nói là việc làm thường xuyên, đào tận gốc rễ của chúng. Nước Văn Lang
Độc Lập gần hai nghìn năm phần lớn là do nền Quốc Đạo lợi hại này, nghe đâu chỉ
truyền xuống Vua Quan không truyền xuống dân mà còn lợi hại như vậy một thứ
truyền thống quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh.
Lúc bấy giờ nơi nhà riêng của lão quan phủ Hửu Tài, yến tiệc đã
bày sẳn, món ngon vật lạ, sơn hào hải vị chẳng thiếu chi, hơi nóng bốc lên ngùn
ngụt, nếu hít phải thời ruột gan cồn cào khó chịu. Lão Hửu Tài đãi ai mà đồ ăn
thức uống vừa sang trọng vừa hiếm quí nhiều đến thế, còn phải hỏi, lão thiết
đãi các quan tướng cấp cao của giặc Ân, một cuộc thiết đãi vừa mang tính cách
nịnh bợ, lấy lòng và cũng tỏ ra là mình sành điệu đối với cấp trên. Các quan
tướng giặc đang hội họp cũng sắp đến hồi kết thúc, thời xuất hiện một người
phụ nữ còn rất trẻ độ 20-21 tuổi, thân hình ỏng ẹo, ẻo lả đến bốc lửa, quần áo
bó sát với điệu nghệ khoe của đường nét hoa mỹ khêu gợi, ẩn hiện làng da trắng
nuốt tỏa ra xung quanh mùi nước hoa đắc tiền, làm ngạc thở những đàn ông chinh
chiến đã xa gia đình lâu ngày, những tay háo sắc tim gan cháy bổng đến phát
điên. Ã ỏng ẹo đến trước Chủ Soái giặc Ân làm người ta liên tưởng đến vũ khúc
khỏa thân của các Mụ Yêu tinh chọc phá thầy tu, nở nụ cười mời mọc lên tiếng.
Bẩm Chủ Soái yến tiệc đã dọn xong mời Chủ Soái cùng các quan tướng sang bên nhà
riêng Lão Gia để dự tiệc, lời mời diệu ngọt pha chút lã lơi làm cho các quan
tướng mê mẩm, chăm chăm nhìn vào bộ ngực, nhìn vào cặp mông đánh qua ẹo lại mỗi
lúc một xa dần. Chu Công Minh như kẻ mất hồn, hỏi ã là ai thế. Đến lúc này
người ta mới nhìn thấy người áo đen Mầm Họa đang ngồi trong xó xỉnh, nhìn bộ
điệu khúm núm như người hầu tớ đã khiếp sợ mụ Phù Thủy chủ nhà, như thằng tù
nhìn thấy cai ngục. Cái kiểu nịnh hót, kiểu mới cố làm ra vẻ sành điệu, giã lắp
bắp. Bẩm Chủ Soái đó là hầu thiếp thứ tám của lão Phủ Gia, bà nào bà nấy cũng
bốc lửa như vậy, mỗi người mỗi vẻ không thể chê vào đâu được. Hí hí con mắt tên
áo đen nói thêm, các con dâu của lão đường nét còn hoa mỹ đồ sộ lộng lẫy đẹp
hơn nhiều, thuộc hàng nhất nhì đất Tây Bắc này. Chu Công Minh nhìn cặp mắt
lương của gã mơ mơ màng màng lúc này gã giống như một con chó nhìn thấy nhiều
cục mỡ thèm đến chảy nước dãi. Bổng con chó gào lên. Bẩm Chủ Soái nếu Chủ Soái
muốn có chi là không được, thấy con chó gãi trúng chỗ ngứa Chu Công Minh cùng
các tướng cười lên khoái trá, nghỉ con chó này cũng biết đánh hơi chỗ sở thích
của mình. Chu Công Minh nói sau vụ này ta sẽ thưởng cho xứng đáng, ngươi khá
lắm. Nghe có thưởng xứng đáng gã liền nghỉ ngay đến thay thế địa vị của lão Hửu
Tài, tống cỗ lão vào đại lao, xung quanh gã có bầy Hồ Ly Tiên Nữ suốt ngày vuốt
ve đấm bóp gã mà gã đã mơ ước thèm khát bấy lâu nay. Chu Công Minh nhìn vẽ mặt
đầy nham hiểm, hai con mắt láo lư, đảo qua đảo lại như quạ bẻ bắp cũng đoán ra
được phần nào lòng dạ của gã, chưỡi thầm trong bụng đồ cáo con còn hôi sữa mà
cũng đòi qua mặt cáo già như ta đây đã già nanh già vuốt, sau này ta sẽ thưởng
cho ngươi một đường Kiếm để ngươi sớm đầu thai làm con chó ghẻ nhà nghèo ra
mắt hàng xốm nở nụ cười bí hiểm. Chu Công Minh ra lịnh quan tướng tới nhà riêng
Hửu Tài để dự tiệc. Nhìn đồ ăn la liệt đã bày sẳn trên chiếc bàn hình chữ nhật
được nối dài ba bốn cái, mặt bàn được phủ một chất liệu vãi dệt bằng tơ tằm
trắng nuốt làm tăng thêm vẻ lịch sự sang trọng, mùi rượu ủ lâu năm thượng hạng.
Tuy chưa rót ra nhưng đã cảm tưởng nghe bốc mùi, làm cho những con sâu rượu ngô
ngấy không yên, hơi nóng bốc lên từ các món đồ ăn sơn hào hải vị, nem Rồng chả
Phụng làm cho người nhẹ bổng bay lên chín tận tầng mây. Các quan tướng giặc Ân
kiềm lòng hết nỗi, nhưng vì Chủ Soái chưa động chén động đũa nên chỉ biết liếm
môi liếm mép mà nhìn. Chu Công Minh như bị thôi miên bởi sự giàu có của lão Hửu
Tài, có nhiều điểm sang trọng tân thời nỗi bật hơn cả cung vua cung chúa quên
cả ăn uống. Lời đồn quả không sai, nước Văn Lang giàu có vô cùng, thảo nào các
đời vua chúa đất Bắc mơ tưởng chiếm cho được nước Văn Lang. Ngoài trời mưa lấm
tấm mỗi lúc một nặng hạt, trời trở gió xe xe lạnh lạnh làm tăng thêm sự quyến
rũ hơi nóng bốc lên từ sơn hào hải vị, đã có vị quan tướng chịu hết nỗi nói.
Bẩm Chủ Soái mời Chủ Soái dùng bữa. Như người sực tỉnh liền thưởng thức món ăn,
nhìn cách ăn uống của tướng giặc, nuốt chửng thức ăn quên cả nhai, rượu hết vò
này tới vò khác, hết hủ nọ tới hủ kia. Người ta liên tưởng đến những gã ăn mày
cả đời mới gặp được bữa cỗ, như người sắp chết đói lâu ngày nhìn thấy cục thịt
nhừ là ngấu nghiến sợ người ta đến giành mất của mình. Lão Hửu Tài có lẽ muốn
lấy lòng Chủ Soái, quan tướng giặc Ân nên lão đã bỏ ra bao công sức thêm những
món ăn đặc sản mới lạ, cái lối nịnh hót khéo của lão pha cỗ pha kim giã tạo
này, nhiều khi nó còn phản ngược lại sự mưu mô mong đợi của
mình. Ở đời dẫn sói về nhà, dẫn trộm
cướp đến tham quan sự giàu sang, vợ đẹp, của ngon vật lạ thời khác chi tự mình
lấy dao đâm vào cổ. Nhưng cha con lão Hửu Tài không bao giờ nghỉ như thế mà
nghỉ mình trọng sói, trọng cướp là họ trọng mình. Nhìn thân hình chẳng mấy đẹp
đẻ mập ú mất cân đối, được che đậy bỡi trang phục vằn vệnh hoa văn ngộ nghỉnh,
màu sắc lòe lọt, bật thầy của sự Diêm Chúa, cỗ không ra cỗ, kim không ra kim
nhưng cha con lão lại cho đây là kiểu mô đênh tân thời đời mới. Mấy bà vợ cũng
không chịu lép vế với cha con lão, ra chào khách với bộ quần áo nữa kín nữa hở
bó sát tân thời, đường nét lộ liễu khêu gợi vô cùng, con mồi đã xuất hiện, bày
sói dữ thích thú suồng sả nắm tay sờ mó lung tung. Ái chà đó là tiếng kêu thích
thú khoái cảm của bà Tám.
Hửu Tài bật ngữa hình như đã hiểu ra chuyện gì liền quát mắng mấy
mụ vợ lui, nhưng nào có được. Chu Công Minh nói không sao, không sao các phu nhân
tiếp khách tốt lắm, đây là bữa tiệc phục chức làm quan như cũ, hi sinh thiệt
hại một chút cũng chẳng sao, nghe nói các con dâu Quan Phủ khá lắm sao không
ra mắt luôn thể để ta khen thưởng luôn cho. Lão Hửu Tài cực chẳng đã mới cho
người gọi dâu lớn, dâu nhỏ ra mắt các quan tướng giặc Ân. Đã phóng lao thời
phải theo lao, tới đâu hay tới đó nhưng lão đã linh cảm một sự việc không lành
xảy ra với lão. Vừa nhìn thấy dâu lớn, dâu nhỏ của lão các quan tướng giặc Ân
như nhìn thấy các nàng Tiên xuống thế, rượu ngon gái đẹp thời còn gì sung sướng
hơn nữa, gươm kề cổ cũng không từ huống chi cha con lão Hửu Tài chỉ là con chó
săn, hết săn được thời thịt.
Cha con lão Hửu Tài vừa choáng váng vừa sợ, vừa tức, vừa hận, nhìn
lũ sói ngoại xâm ôm lấy vợ mình dồn dập tới tấp bốc hốt làm các ã Hồ Ly mê tít,
cha con lão phát điên quát tháo, các quan tướng không được làm thế, cha con lão
cứ gào lên mãi, nhưng gào để ai nghe, cha con lão nhìn những cục vàng bọc kín
bằng tơ lụa bị những con sói xé bỏ cha con lão che mắt tuyệt vọng gào thét dữ
dội. Những con sói dữ đang dò dọc con mồi đến hồi quyết liệt gây cấn, bị người
ta phá đám, tức giận quát tháo ầm ỉ. Ta làm thế thì sao nào. Ông cha ta thường
nói, nóng giận mất khôn. Cha con lão Hửu Tài mất cả lí trí quát to, ta bảo các ngươi
dừng tay với cái lối xưa nay bề trên ra lịnh bề dưới, cha con lão quên mất
trước mặt mình là ai, thế là tai họa ập tới.
Cha con Hửu Tài nhìn thấy người áo đen thuộc hạ trung thành nhất
của lão nói to, nói nhỏ với Chu Công Minh, cứu gia đình lão, nào hay đâu Chu
Công Minh quát to, hãy bắt cha con lão Hửu Tài giam vào ngục, cái ngục mà xưa
nay cha con lão cho là đặc biệt, nghe đến cái ngục đặc biệt thời cha con lão đã
hiểu tất cả.
Lão chỉ mặt tên áo đen thét lớn, đồ chó má, đồ phản chủ, ta đã
quên mất ngươi là Mầm Họa nên mới có cảnh ngày hôm nay, đồ chó má rồi sẽ đến
lượt ngươi, lão cứ gào, gào để cha con lão nghe. Cha con lão nhìn sang các mụ
vợ, các con dâu như cầu cứu, như van lơn. Nhưng các bà vợ, các con dâu nào có
đếm xỉa gì tới cha con lão, nhìn cha con lão với cái nhìn xa lạ, chỉ thả hồn
theo bàn tay ve vuốt của loài cáo, sói. Chiếm lỉnh thọc sâu vào vùng cấm địa mà
cha con lão đã tận tị, tốn công tốn của chăm sóc, xây thành đắp lũy cho thêm đồ
sộ, cái tình tiết của nợ đời đã làm cho cha con lão đau khổ vô cùng tức trào
máu họng, thế là hết, thế là hết. Các ã con dâu, mụ vợ nhìn cha con lão bị bắt,
lôi đi xềnh xệch như nhìn con chó ghẻ sọt rác đã bốc mùi hôi thúi, càng xa càng
tốt. Mụ vợ thứ tám yêu quí của lão, hối thúc đưa cha con lão đi mau, để khỏi bị
kỳ đà cản mũi khi chiến trường đang nổ ra giòn giả, dồn dập, tới tấp, liên
miên. Thấy các con dâu, mụ vợ làm ngơ trước sự cầu cứu của cha con lão, cha con
lão nghỉ không lẻ ta không bằng con chó, khi mất chó người ta còn tiết hậm hụi
kia mà. Xưa nay cha con lão thường cho người ta ăn món ăn gông cùm bị lôi đi
xềnh xệch. Nay cha con lão mới ném thử, thấy sao mà chua chát quá, tủi nhục
quá, đau đớn hết chỗ nói.
Lão nhìn người áo đen gào lên, tên trời đánh, đồ phản bội, ngươi
trả ơn ta bằng cách này sao? Ác lai ác báo. Trả lời lão là những cú đạp như
trời gián liên tiếp của gã áo đen, làm cha con lão lộn trọc, té lăng chiên đứng
dậy hết nỗi. Cha con lão nghe tiếng sét như sấm nỗ bên tai, đồ con lợn đứng dậy
mau không ta cho một Đao chết tốt, cái tánh tham sống sợ chết thúc dục cha con
lão đứng dậy răm rắp nghe theo lời nộ nạt của tên áo đen.
Tiếng cửa ngục đã mở, chân của lão cứng đờ, các con lão cũng thế.
Người áo đen ra lịnh cho đám thuộc hạ lôi cha con lão đi. Sầm một cái cha con
lão giật cả mình, nhìn cái cửa tù đã đóng lại gã áo đen dần dần mất hút. Nhìn
những song sắt to đùng, bốc hơi lạnh mùi tanh hen rỉ của sự ẩm mốc, ánh sáng le
lói vừa đủ cho cha con lão nhìn thấy cảnh quang trong ngục tù. Những bộ xương
người rãi rác chồng chất lên nhau, những chiếc đầu lâu trắng hếu làm tăng thêm
vẻ rùng rợn mà cha con lão tích lũy tính ra hơn mười mấy năm, mùi chết chóc của
thế giới oan hồn đã hiện ra, những con ma đói khác nhìn cha con lão với cái
nhìn ăn tươi nuốt sống.
Tiếng động, tiếng động, những con ma biến mất thay vào đó là tiếng
phì phèo mỗi lúc một nhiều, mỗi lúc một gần. Cha con lão kinh hoàng vì cha con
lão hiểu rõ tiếng động ấy, tiếng động của loài rắn ăn thịt người mà cha con lão
đã nuôi nó từ lâu. Kìa một con đã bò ra, rồi hai con ba con thế là lúc nhúc cả
đàn, rắn ông rắn bà, rắn cha, rắn con, rắn cháu, rắn chắt, rắn chít, họ mười
mấy đời, cho đến vài chục đời nhà rắn, nhìn cha con Hửu Tài thè cái lưỡi tỏ vẻ
thèm thuồng lắm. Chúng nhìn miếng mồi béo mập, bốc mùi mỡ trên thân hình cha
con lão, đàn rắn bò tới bò lui, miệng phì phèo, có lẽ chúng đang hát bài ca dân
tên công lý, gieo ác gặt ác nhất là thịt của những người phản Quốc lại thơm
ngon lắm. Hàng trăm con mắt rắn chăm chăm nhìn cha con lão như cảm ơn Thiên
Công đã ban tặng gia đình rắn một bữa ăn no nê. Lão Hửu Tài sợ quá, nhìn sang
những người con, hầu tìm đồng minh trấn áp nỗi sợ hãi, nhưng ôi không những cái
xác không hồn, có lẽ các con lão sợ quá đã tắc thở tự bao giờ. Giờ đây chỉ còn
lại một mình lão, một nỗi sợ hãi pha lẫn sự cô đơn mà lão nghỉ không bao giờ
xảy ra với lão, nhất là chứng kiến rắn ăn thịt người, ăn ngay trên thi thể xác
thịt cha con lão mà trước đây lão cho là thú vị nhất.
Lão nhìn đàn rắn sợ quá la ré, đàn rắn thích thú, ngúc nguê cúi
đầu tán thưởng bài ca ác lai ác báo, gieo ác gặt ác, lão nhận đủ cả vốn cả lãi
lẩn lời. Lũ rắn nghe chán nghe chê liền lao tới hút máu ăn thịt cha con lão,
không bao lâu chỉ còn lại năm bộ xương khô, theo kiểu úp mặt xuống đất của loài
bò sát do lưng lên trời. Nhìn cái kiểu nằm trời phạt của cha con lão, khi mản
tù nơi địa ngục âm phủ, may mắn cũng chỉ đầu thai vào loài cầm thú mà thôi.
Thơ rằng:
Đã sanh được kiếp làm người
Thân hình đứng thẳng đội trời đẹp thay
Tiên Rồng Nguồn Cội tung bay
Thiên đàng rộng mở đắp xây an lành
Hửu Tài gian ác tột cùng
Sâu dân mọt nước lấp vùi hiếu trung
Tôn thờ lũ giặc ngoại xâm
Tưởng đâu cuộc sống lên hương sáng ngời
Nào hay tai họa gián đầy
Làm mồi cho rắn, hồn thời đọa sa
Luật trời nào phải đâu xa
Gieo gì gặt nấy xưa nay chẳng lầm
Gieo ác thời ác đến tâm
Gieo thiện thời thiện âm thầm tới luôn
Tai trời nghe thấu trong tâm
Mắt trời thấy cả lỗi lầm trong đêm
Tưởng đâu Trời Đất mông mênh
Nào hay Trời Đất sát bên hồn người
Hửu Tài tội ác tày trời
Khó mong trở lại làm người kiếp sau
Thú Cầm luân chuyển xiết bao
Rồng Tiên đánh mất, ôi nào tiếc thay
Ác gian họa đến tai xây
Thiên đàng đánh mất hồn bay ngục tù
Gương trời soi sáng thiên thu
Cho người trần thế soi chung giữ mình.
Nhìn mười mấy hòm rương. Chu Công Minh hỏi người áo đen, đã lục
soát hết chưa? Với bộ dạng khúm núm gã thưa. Bẩm Chủ Soái đã lục hết rồi ạ.
Ngươi hãy mở ra xem những chiếc hòm rương đựng gì trong đó, thế là một chiếc
hòm rương bật nắp, gã ồ lên một tiếng, nhìn ngọc ngà, vàng bạc, châu báu sáng
lóa làm gã sửng sốt, gã tiếp tục mở chiếc hòm còn lại rồi tới chiếc hòm cuối
cùng. Gã áo đen nghỉ sao mình ngu ngốc đến thế, sao không dấu đi một nữa, lòng
tham bộc phát dữ dội, đáng lý tất cả là của ta.
Nói về Chu Công Minh như từ trên trời rớt xuống, nhìn những chiếc
hòm rương đựng đầy ắp ngọc ngà châu báu, tưởng là mình đang nằm mơ ý tưởng độc
chiếm nỗi lên, tất cả là của ta, không cho một ai biết đến. Tên Mầm Họa người
áo đen nào hay biết gì, con chó săn khi hết còn lợi dụng, thời để làm chi nhiều
khi nó còn làm hại ông chủ, Chu Công Minh nghỉ thịt đi là vừa. Nhìn người áo
đen đang khúm núm, Chu Công Minh nói, ngươi lại đây ta thưởng cho ngươi những
gì ngươi muốn, công lao ngươi rất lớn ngươi cứ nói. Tên áo đen Mầm Họa mừng quá
bước tới khúm núm chờ những khúc xương mà ông chủ quen ra. Bất ngờ ánh Kiếm
chớp lên, tên áo đen hốt hoảng nhưng đã muộn rồi cái đầu đã lìa khỏi cổ bay đi
lông lốc, đúng như Hửu Tài chửi ác lai ác báo rồi sẽ đến lượt ngươi.
Quân lính đâu: Chu Công Minh gọi: đem cái xác con chó
ngu đần này quăng ra gò cho quạ mổ, kiến xơi, chồn tha, cáo nuốt. Tuân lịnh.
Nơi gò hoang không những cái xác không đầu của tên áo đen đã bốc
mùi hôi thối mà còn có những cái xác trần truồng đầy máu me, đây không phải là
xác binh lính mà là những cái xác phụ nữ, có xác còn rất trẻ, thì ra đây là xác
của vợ lớn, vợ nhỏ, dâu lớn, dâu nhỏ của cha con Hửu Tài. Sau những cuộc mây
mưa chê chán liền đã hất ra cho binh lính xài, chỉ có mười mấy bông hoa mà cả
đàn ong lũ bướm tranh nhau giành giật, hết con này tới con kia, hết con nọ tới
con khác cấu xé vùi dập tơi bời, tả tơi xơ xác rồi đêm ném xác ra gò cho kiến
xơi quạ mổ. Nhìn hai con mắt đầy oán hận, pha lẩn nổi sợ hãi kinh hoàng, thế là
những mánh khóe Hồ Ly bạc tình bạc nghĩa cuối cùng cũng nhận lấy hậu quả, cái
giá phải trả cũng đắc. Thế mới biết gieo nhân bất chính nên kết quả gặt hái
những thảm khốc, đó là quy luật của Hóa Công mà từ xưa nay không có chi là đổi
khác. Gieo nhân bất chính nên kết quả cũng khó mà gặt lành, đó là quy luật
chung không dành riêng cho ai.
**************
PHẦN 31
Đây nói về Chiêm Chiêm Vương là vị vương trấn thủ Nam Văn Lang,
không có công văn thông báo triệu tập của Hùng Tiên Lang sanh lòng buồn bực
nghỉ, từ xưa tới nay những cuộc họp quan trọng đều có Chiêm Chiêm Vương ta, nay
nước nhà giặc Ân xâm lấn, các vị Vương ở Tây Văn Lang, Đông Văn Lang, Bắc Văn
Lang đều đưa quân lên đường chống giặc, còn ta cũng là Vương Gia trấn thủ Nam
Văn Lang sao Vua Hùng lại bỏ quên, thế là sao hử, càng nghỉ càng tức. Chống
giặc ngoại xâm nào phải của riêng ai, toàn dân kháng chiến có lẽ nào các bộ tộc
Nam Văn Lang lại thua kém các bộ tộc Tây Văn Lang, Đông Văn Lang, Bắc Văn Lang.
Bằng họp các tướng lại Quảng Hồ Thành trên địa phận Quảng Hà Châu, khi các quan
tướng từ Bộ, Châu, Huyện về họp đông đủ. Chiêm Chiêm Vương nói từ khi dựng nước
giữ nước đến nay gần hai nghìn năm Độc Lập, đất Phương Nam luôn luôn khai hoang
mở rộng theo di giáo lời dạy của Quốc Tổ Vua Hùng là khai hoang mở rộng vào Nam
cho đến khi nào gặp chín con Rồng thông ra biển thời chân lý Tiên Rồng sẻ sáng
tỏ năm châu Địa Long Vũ Trụ sẽ cất cánh bay về Trời. Nay nước nhà bị giặc Ân
phương Bắc xâm lược mà Vua Hùng xem chúng ta như người ngoài là có ý gì đây?
Hung hay Kiết, các quan tướng bàn tính đón xem, để có kế sách đối phó.
Các quan tướng nghe qua tình hình, có người tức giận, có người lo
sợ, có người hoang mang không biết chuyện gì sắp xảy ra. Bổng có quân vào báo,
bẩm vương gia có người cần gặp. Chiêm Chiêm Vương ra lịnh cho người ấy vào.
Tuân lịnh, không bao lâu người ấy được đưa vào ra mắt Chiêm Chiêm Vương. Chiêm
Chiêm hỏi ngươi ở đâu, gặp ta có chuyện gì? Người ấy thưa hạ dân quê ở Hồng
Châu, huyện Hồng Hải, xã Ninh Quan lúc vào rừng đi săn gặp một người bị thương
rất nặng hỏi ra mới biết người ấy bị cọp vồ, cuối cùng người ấy cũng hạ được
con cọp, một con cọp to lớn, người ấy nói với tôi thời bất tỉnh không biết gì
nữa, hạ dân đưa người ấy về nhà thuốc than chữa trị, hơn 10 ngày mà vẫn bất
tỉnh, có lẽ vì quá nặng sau năm hôm nữa thì qua đời. Trước khi tẩm liệm hạ dân
phát hiện có một bức phong thư nhưng vì hạ dân ngu dốt không biết đọc, sau khi
chôn cất xong người xấu số hạ dân mới tìm người đọc dùm mới hay là khâm sai của
triều đình, đem thơ đến cho Vương Gia. Người ấy nói xong liền dâng thơ lên.
Chiêm Chiêm Vương nhận thơ rồi đọc, nội dung thơ như sau.
Chiêm Vương Gia nhận được thư này thời cấp tốc về Kinh Đô Văn Lang
để họp, bàn những vấn đề cần thiết liên quan đến vấn đề hung hiểm của Tổ quốc
non sông. Chiêm Chiêm Vương linh cảm như có điềm chẳng lành sắp xảy ra, nghỉ
không lẻ đây là ý Trời, không dám nghỉ sâu thêm nữa. Chiêm Chiêm Vương tập
trung lực lượng các châu, phủ hơn 5 vạn quân chuẩn bị ngày mai lên đường tiến
về phương Bắc chung tay góp sức tiêu diệt giặc Ân.
Không ngờ em họ của Chiêm Chiêm Vương là Hồ Chiêm Quân làm phản,
giết Chiêm Chiêm Vương lên nắm quyền sanh sát trong tay ai theo thời sống, ai
chống thời chết. Hồ Chiêm Quân giết anh họ của mình tạo ra cái cảnh nồi da nấu
thịt, xưng Đế vương biệt lập. Tức thời một cuộc nội chiến xảy ra, tàn sát đẩm
máu chưa từng có trong lịch sử Nam Văn Lang, cái cảnh củi đậu nấu hạt đậu mà Hồ
Chiêm Quân cho là chính nghĩa vì đó là lời dạy của các Đấng Thần Linh, nghe
theo Thần Linh thời sống, chống lại Thần Linh thời chết. Hồ Chiêm Quân tự dựng
lên thuyết Thần Linh những vị Thần không có thật, do Hồ Chiêm Quân tưởng tượng
đặc ra, lừa bịp dối gạt dân chúng vì lúc ấy trình độ dân trí còn quá lạc hậu
nên đại đa số đã bỏ Cội Nguồn chạy theo cuồn tín ma thuật dị đoan, đi vào con
đường tàn sát lẩn nhau dẩn tới bao tai họa sau này.
Phải chăng cãi lại Cha Trời
Họa tuông máu đổ đầu rơi khắp cùng
Chẳng tin lời dạy Vua Hùng
Anh em tàn sát họ hàng máu tuông
Nồi da nấu thịt sớm hôm
Từ đây Bộ Lạc Chiêm Vương khổ sầu
Chia đàng rẻ nghé tan bầu
Lệ dân khốn khổ biết đâu Cội Nguồn
Tiên Rồng văn hóa con đường
Đại Đồng bình đẳng náo nương về trời
Thánh Thần phật chúa do người
Do tâm mê ngộ tạo thời mà nên
Ác thời thành quỹ thành yêu
Thiện thời thành phật thành tiên thánh thần
Hồ Chiêm lạc lối đã đành
Kéo theo vô số dân lành thảm thây
Đầu rơi máu đổ tai bay họa cùng
Khi nào lời dạy Vua Hùng
Tái sanh trần thế Đại Đồng nở hoa
Văn Lang sống dậy lời ca
Thái Bình Độc Lập nở hoa thái bình
Chiêm Vương trở lại hồi sinh
Hồ Chiêm phải chịu cực hình trước dân
Trước muôn vạn ức Thánh Thần
Trị trừng cái tội phản trời xưa nay
Trời Nam Phụng hội Rồng bay
Địa Long vũ trụ Đông Tây hội về
Hư Không vũ trụ ra đề
Thánh Thần Tiên Phật bộn bề lo chung.
**************
PHẦN 32
Đây nói về Tây Thục Vương ở Tam Giang Tây Châu cách Kiến Giao Châu
không xa, chỉ một vạn quân đóng tại đây nhưng hùng mạnh vô cùng vì có 200 kỵ
binh thiết giáp, đội quân chủ lực của quân Văn Lang. Mạng lưới thông tin đặt
khắp nơi cập nhật từng giờ, nhất là tình hình Tây Dương Châu, Tây Giang Châu,
Kiến Giao Châu. Biết được quân Ân tấn công ba thành chỉ trước sau có vài ngày
thôi. Giờ nầy ba thành đều đang giao tranh quyết liệt. Thành Tây Giang Châu đã
có 10 vạn quân của Diệp Lang Đích Tôn Vương Tử tiếp viện xung trận lại có Địa
Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm thời không còn lo chi nữa, chỉ lo là con dâu út Thái
Nga của Thục Cương sống chết chưa rõ, đang lúc lo lắng cho con, thời có quân
thám báo vào báo. Bẩm vương gia thành Tây Dương Châu thất thủ rồi. Thục Vương
tưởng mình nghe lầm, hỏi lại ngươi nói cái gì? Bẩm Vương Gia thành Tây Dương đã
bị giặc Ân xóa sổ. Tây Thục Vương kinh hãi quát lớn ngươi nói cái gì, tên thám
báo sợ quá nính thinh, lấy lại bình tỉnh Tây Thục Vương hỏi, còn gì nữa không?
Bẩm Vương Gia quân ta đang thất lạc khắp nơi, Thục Vương nói hảy tung mạng lưới
thám báo cùng khắp thu thập thông tin. Tuân lịnh. Tên thám báo nầy vừa ra thời
tên lính thám báo khác lại vào, tên nầy có vẻ bình tỉnh hơn. Bẩm Vương Gia,
Kiến Giao Châu quân Ân đang tấn công dữ dội, giao chiến đã ba lần rồi, quân ta
có vẻ lấn thế nên quân Ân chưa làm gì được, còn gì nữa không? Thục Vương hỏi.
Dạ hết tên lính thám báo đáp xong thời lui ra tên thám báo khác tiếp tục thông
báo tình hình chiến địa. Bẩm Vương Gia tình hình Tây Giang Châu đã đảo ngược,
quân ta đã xóa sổ trên 12 vạn quân Ân, Chủ Soái Triệu Tử Quân, phó thống soái
Ngạc Sùng Văn đã tử nạn. Giờ các quan tướng đang họp bàn tại thành Tây Giang
Châu, Thái Nga quận nương cũng đã khỏi bệnh, nghe nói Thái Nga quận nương lợi
hại vô cùng, giết được Cạp Tinh, Xà Tinh uy danh lừng lẫy. Tây Thục Vương mừng
rở cảm ơn trời đất, vuốt chồm râu nói có thế chứ, nhưng niềm vui liền chợt tắc
vì thành Tây Dương Châu thất thủ, Thục Chăm, Thục Liêu, Thục Châu không hiểu
sống chết ra làm sao, liền viết vội một phong thơ gởi cho ba anh em Thục Mân,
Thục Ren, Thục Cương nội dung thơ viết như sau. Nhận được thư này các con hãy
trình lên xin ý kiến chỉ đạo của Đích Tôn Vương Tử. Tình thế vô cùng khẩn cấp,
thành Tây Dương thất thủ, Thục Chăm, Thục Liêu, Thục Châu các anh con sống chết
chưa rõ, binh lính chạy tản lạn khắp nơi, còn thành Kiến Giao Châu chiến trận
giao tranh quyết liệt. Hồi âm thư cho cha <Tây Thục Vương>.
Nói về Diệp Lang phá được trậm Âm Dương tứ tượng ngũ hành, tiêu
diệt hơn 10 vạn quân Ân tướng sĩ đi đời hồn chầu Địa phủ, liền cho người điểm
lại quân binh hao tổn bao nhiêu, không bao lâu Đại Lực Tướng Quân vào báo. Bẩm
Vương Tử quân ta còn hơn 8 vạn, nghe con số tổn thất như vậy Diệp Lang buôn
tiếng thở dài, tại ta tất cả quá chủ quan dẩn đến sơ sót. Bài học kinh nghiệm
đã được rút ra, tự tin là điều tốt, lòng tự tin phải đi đôi với sáng suốt dựa
trên cơ sở thực tiển căn cứ rõ ràng một cách khoa học thời kết quả ra quân mới
đạt thắng lợi cao. Hiện giờ trên khắp đất Bắc giặc Ân đang ráo riết xâm lăng
chiếm lần chiếm lần đất đai sâu vào nước Văn Lang, cảnh dầu sôi lửa bỏng, dân
chúng lầm than cơ cực, tình hình khẩn cấp khó thể ngồi yên trong lúc này Diệp
Lang liền ra lịnh.
Các tướng nghe lịnh hãy thu dọn chiến lợi phẩm rút lui về rừng
Tiên Du tạm thời đóng quân tại đó khao thưởng binh lính, đợi lịnh: rõ. Còn
Trung Đại Nhân, Trung Hoài Nghĩa, Ngọc Thiên Hương, Lạc Tiên Tiểu Thơ theo bổn
Vương vào thành Tây Giang Châu hội họp, xin tuân lịnh.
Sau khi phá trận xóa sổ hơn 10 vạn quân Ân, ba anh em nhà Tây Thục
liền cho người điểm lại quân lính thời chỉ còn hơn 6 vạn cọng thêm hai cách
quân phục kích tại rừng Hổ Mang lau sậy cùng cánh quân phục kích tại đường Độc
Đạo, thời chỉ còn hơn 7 vạn quân là cùng không khỏi thở dài.
Nơi quan phủ tại nhà riêng An Lạc Điền lúc nào cũng rực rỡ, không
phải nhà cao cửa rộng, vàng bạc châu báu lụa là gấm vóc mà là những nàng Tiên
lạc bước xuống trần, họ là ai thế thời ai vào đó nữa, ba vị phu nhân của ba anh
em nhà Tây Thục cọng thêm hai vị con cưng của hai nhà quan phủ thế là năm.
Xê Đang: như cánh Hoa Đào.
Xê Ni : như cánh Hoa Lan.
Thái Nga: như cánh Hoa Mai.
Tiên, Thiên Hương: như mùa xuân rực rở muôn hoa.
Tiếng nói cười như oanh hót, sơn ca. Năm nàng tiên lúc nào cũng
tươi cười rực rỡ, làm cho người ta quên mất những trận chiến sanh tử khốc liệt
vừa qua. Nhất là Thái Nga nàng lúc nào cũng tươi cười sung sướng, tưởng mình đã
chết nào hay được phước to, nhờ gặp được linh đơn cứu mạng, không những cứu
mạng mà còn làm cho Thái Nga trẻ lại 5-7 tuổi, xinh đẹp hẳn lên, nội lực tăng
lên gấp đôi. Thấy người cứu mạng mình là 1 người con gái còn rất trẻ, xinh đẹp
vô cùng, đẹp đến nỗi nàng không tin ở mắt mình, nhưng đây là sự thật một con
người bằng xương bằng thịt, lúc nào nàng cũng theo sát Ngọc Thiên Hương cung
kính thân thiện.
Bữa tiệc thiết đãi của quan phủ An Lạc Điền không cầu kỳ cho lắm,
chỉ toàn là đặc sản của địa phương. Với tài nghệ chế biến nấu nướng của An Lạc
Điền, biến đặc sản của địa phương thành cao lương mỹ vị, nhiều món khác lạ mà
ngay cả cung đình cũng chẳn có. Có thể nói những món ăn ở đây không thua kém ở
hoàng cung, không hiểu cái tài chế biến nấu nướng nàng học ở đâu cha nàng cũng
không rõ. Những món ăn còn nóng hổi bốc hơi thơm ngào ngạc được bưng lên bởi
những bàn tay ngọc ngà, tuy chưa thưởng thức món ăn nhưng đã thấy ngon làm bụng
đói cồn cào. Thế là không còn khách sáo tất cả đều nâng ly vào tiệc, bữa tiệc
tuy đơn sơ nhưng lại đầy ý nghĩa của sự đoàn kết, tình đồng loại nghĩa Đồng Bào
mang tính Đạo Đức thành tâm hơn là phô trương sự sành điệu của mình. An Lạc
Điền là người thông minh, trước mặt Đích Tôn Vương Tử, không nên phô trương
khoe khoang, ăn chơi sự sành điệu của mình mà nên giữ đúng nghĩa vị quan tiết
kiệm thanh liêm thời hay hơn phô trương sự giàu có, mà thể hiện vì quan phủ lúc
nào cũng lo cho nước, cho dân. Diệp Lang vừa thưởng thức món ăn vừa quan sát
cảnh quang nơi quan phủ luôn luôn gật đầu khen ngợi. Trung Đại Nhân là người
tinh tế nhạy bén về tình hình này, lão nghỉ có lẽ An Lạc Điền đã cao tay ấn hơn
lão một bậc, đây là bài học khôn khéo mà lão mới thấy lần đầu. Thấy Diệp Lang
vừa thưởng thức món ăn vừa nhìn quanh cảnh xung quanh mãi gật đầu. An Lạc Điền
nghỉ ngay đến ngôi vị làm cha vợ vị Vua Hùng đời thứ bốn thời hậu Hùng Vương
nào phải chỉ An Lạc Điền nghỉ thế đâu mà ngay cả Trung Đại Nhân cũng có ý nghĩ
này, hai người lâu lâu nhìn nhau như có vẻ hiểu nhau. An Lạc Điền, Trung Đại
Nhân đều là bật anh hùng quân tử trong hàng quan phủ đương đại, không có ý nghỉ
hẹp hòi ganh ghét, giật giành lẫn nhau mà lúc nào cũng ôn hòa thân thiện kính
trọng lẫn nhau.
Diệp Lang là người khó tính trong việc chọn ý trung nhân, thế mà
từ khi gặp gỡ hai nàng con gái Thiên Hương và Lạc Tiên thời quả tim đã rung
động nhưng chưa vội vã nói ra vì còn quá sớm lại thêm chiến trường dồn dập
những trận tử chiến, sống chết chưa thể tính trước. Hơn nữa tình yêu phải để
cho nó chín mùi, không khéo sẽ gây thêm sự rắc rối.
Vừa mới gặp nhau, nở nghiệp duyên
Có phải ngày xưa, đã thề nguyền
Gặp nhau trong lúc, đầy binh lửa
Sống chết kề vai, kết quả Tiên
Gươm giáo còn vang, rền sông núi
Tình yêu đợi chín, trốn trận tuyền
Binh lửa tàn rồi, nên đôi lứa
Chim, cánh từ đây mãi nên duyên.
An Lạc Điền mở tiệc đãi bao hàm nhiều ý nghĩa ít ai có thể nhìn
ra, khi tiệc cũng sắp đến hồi mỹ mản thời có quân vào báo. Có quân thám báo do
Tây Thục Vương phái đến, Diệp Lang mời vào, không bao lâu tên thám báo vào hành
lễ, dân thư của Tây Thục Vương gởi cho. Thục Mân nhận thư không xem mà dân lên
Diệp Lang, Diệp Lang nhận thư đọc, Thục Mân xúm lại xem, thấy nội dung trong
thơ vô cùng kinh hãi liền trao qua cho hai vị quan phủ xem, xem xong hai vị
quan phủ mặt liền biến sắc nói, tình hình vô cùng phức tạp có thể nói là nguy
hiểm phải nhanh chóng giải quyết. Thế là cuộc thảo luận sôi nổi cuối cùng cũng
đưa đến kết luận, thống nhất chung. Diệp Lang liền viết một mật thư hồi âm,
giao cho tên thám báo, để cho chắc ăn phái một số cao thủ theo hộ giá mật thư,
nội dung mật thu như sau. Vương Gia lo tiếp viện Kiến Giao Châu còn Tây Dương
Châu giao cho Diệp Lang tôi đảm nhiệm, cùng tìm kiếm binh lính đang bị thất
lạc, tình hình khẩn cấp Vương Gia định liệu Diệp Lang ấn bút. Để cứu vản xoay
chuyển tình thế, Diệp Lang triển khai ngay lực lượng, Diệp Lang ra lịnh.
Thục Ren, An Lạc Điền, An Lạc Sơn nghe lịnh: Có thuộc hạ, ba
vị tướng quân ở lại giữ thành nghi binh cờ xí chiêng trống rầm trời. Tuân
lịnh.Thục Mân, Thục Cương nghe lịnh: Có thuộc hạ, nhị vị tướng quân, mỗi
người điểm 2 vạn quân tức tốc đến huyện Hà Giang, rừng Hà Lâm hợp với 4 vạn
quân ở đây, Mường Thái tướng quân, Lô Gô tướng quân. Văn Quang tướng quân tất
cả đều phải nghe theo sự chỉ huy của Thục Mân. Diệp Lang liền lấy gươm lịnh
trao cho Thục Mân nói, tướng quân hãy tạm thời nhận lấy thanh gươm lịnh này,
điều khiển 3 vạn quân tướng sỉ tức tốc dẩn đại quân vây hảm thành Tây Dương
Châu. Tuân lịnh. Trung Đại Nhân, Trung Hoài Nghĩa, Ngọc Tiểu Thơ theo bổn vương
về doanh trại, thống lảnh đại quân tiến đánh thành Tây Dương Châu. Tuân lịnh.
Nhìn thấy bộ mặt tươi như hoa mới nở An Lạc Tiên giờ đây trở nên
héo xèo, trông cô thật tội nghiệp. An Lạc Điền là người thông minh hiểu rõ tâm
trạng của con gái mình, liền nói Ngọc Cô Nương hãy cho Lạc Tiên con lão theo
tiểu thơ học hỏi xung trận. Diệp Lang nghỉ nếu trận chiến vừa rồi không có Lạc
Tiên, thời Ngọc Thiên Hương đã bị Hồ Ma Yêu làm hại rồi liền nói, có Lạc Tiên
tiểu thơ theo cô xung trận thời tôi mới an tâm. Nghe câu nói đầy lo lắng của
Diệp Lang đối với mình, Ngọc Thiên Hương nghe lòng mình ấm áp đến kỳ lạ còn Lạc
Tiên chỉ cần lúc nào cũng đi theo Diệp Lang là sung sướng lắm rồi.
Tình yêu là cái chi chi
Khiến người lo lắng sầu bi sớm chiều
Sự đời có biết bao nhiêu
Hận yêu, yêu hận lắm điều chua cay
Tình yêu càng đắm càng say
Càng nhiều ngọt đắng, càng hay buồn sầu
Nợ duyên, duyên nợ cõi đời
Như cơn gió thoảng đến rồi lại đi
Lắm khi mà cũng nhiều khi
Nên trang giai đoạn tình yêu châu vàng
Tình yêu trổi dậy ngập tràng
Như Trời và Đất rộn ràng mùa xuân.
**************
PHẦN 33
Ruộng vườn sai quả sai hoa
Bổng đâu cầm thú bay qua dẩm càng
Lê dân khốn khổ tột cùng
Giặc Ân cướp bóc, xốm làng xác xơ
Yêu nước nào thể làm ngơ
Triệu người như một đứng lên diệt thù
Dẫu cho thân xác chẳng còn
Cũng vào trận đánh giữ gìn nước non.
Đây nói về Triệu Công Tiển, theo lịnh của Ngạc Sùng Cảnh thống
lảnh trên 12 vạn quân cùng các trấn chư hầu, Mân, Ngân, Ngụy tiến đánh thành
Kiến Giao Châu. Triệu Công Tiển không những là tay đa mưu, túc trí, võ nghệ cao
cường lại có học thuật phép Tiên là vị tướng giặc lợi hại vô cùng. Nhìn cái
cách hành quân thần tốc ai thấy cũng phải lắc đầu le lưỡi, dọc đường luôn luôn
để lại quân thám báo. Đội quân thám báo của Triệu Công Tiển vô cùng lợi hại,
tất cả thông tin đều cập nhật hằng giờ. Đại quân chưa đến Kiến Giao Châu nhưng
mật thám của Triệu Công Tiển đã đến đó ba bốn ngày rồi, luôn luôn nắm bắt tình
hình chính xác.
Thành Kiến Giao Châu là một trong những thành ở Kinh Bắc, kiên cố
còn hơn Tây Giang Châu. Trấn giữ thành này là vị quan phủ Ngô Thời Đại, hết mực
thương dân, có ba người con trai, con lớn theo nghiệp võ, hai người em kế theo
nghiệp văn, đều là trang anh hùng hào kiệt, giàu lòng yêu nước đối với non sông
Tổ Quốc. Nghe giặc Ân xâm chiếm nước nhà, thời hùng khí Tiên Rồng nỗi lên, háo
hức tham chiến tiêu diệt giặc Ân, nhận được thông báo Vua Hùng ra lịnh. Châu,
phủ, quận, huyện khẩn cấp di tản lánh nạn giặc Ân. Người con lớn lo tập họp lực
lượng binh lính ở các quận, huyện, còn hai người em thời hướng dẩn dân chúng di
tản sâu vào các châu, quận, huyện phía Nam. Không bao lâu 10 vạn đại quân kéo
đến, quan phủ Ngô Thời Đại cùng các con ra đón đại quân hơn dặm, nhìn thấy ba
anh em nhà Tây Thục như sư tử, hổ, voi nơi đại ngàn thời nghỉ lời đồn quả không
sai. Tây Thục Vương có chín người con làm chúa trấn thủ chín vùng, người nào
người nấy anh dũng hơn người. 10 vạn đại quân vào thành an vị đâu vào đó, Ngô
Thời Đại sai con lớn là Ngô Thạch Hản mời ba vị đại tướng quân cùng các vị quan
tướng đến nhà riêng để thiết đãi. Nhìn cung cách thiết đãi cũng đủ thấy vị quan
phủ nầy rất kính trọng ba anh em nhà Tây Thục, rượu được vài tuần, để thử tài
ba anh em nhà Tây Thục thực hư ra làm sao, cũng là để cho ba người con của lão
mở rộng tầm hiểu biết.
Vị quan Ngô Thời Đại nói, trước tình hình này, nghe nói giặc Ân
quyết biến nước Văn Lang thành thuộc địa của chúng, với quy mô xâm lược chưa
từng có lên đến 200 vạn quân. Trước tình hình này thời chúng ta phải làm sao,
khi địch mạnh hơn ta gấp đôi gấp ba? Thục Lao đáp, thưa Phủ Gia từ cổ chí kim,
phi nghĩa khó thắng chính nghĩa, sức mạnh của chính nghĩa là sức mạnh vô địch
không có một sức mạnh phi nghĩa nào hơn được. Ngọn lửa yêu nước là ngọn lửa bất
tử, không có một thế lực nào dập tắc được. Lòng căm thù rộng lớn như biển cả
Đại Dương, luôn luôn tạo ra những con sóng dữ, nhấn chìm lần những con thuyền
hiện đại đi sâu vào giông tố của lòng quật khởi yêu nước. Nền Quốc Đạo Dân Tộc
là lũy cao, hào sâu dù cho thiên binh vạn mã cũng khó mà vượt qua, một nền Văn
Hiến lâu đời đã có hơn hàng nghìn năm chủ quyền Độc Lập, có gươm Thiên trấn
quốc Văn Hóa Cội Nguồn. Vì thế dù cho giặc có 500 vạn quân, thậm chí 1000 vạn
quân thời kết cuộc cũng thất bại mà thôi, chuyện chống ngoại xâm là chuyện
thường xuyên, như ăn cơm bữa, trường kỳ kháng chiến, chúng ta thắng giặc bằng ý
chí và sự quyết tử nhưng không phải vì thế mà nôn nóng đưa quân vào tử lộ, xem
mạng anh em binh lính như cỏ rác, không có mục đích kết quả. Đó không phải là
yêu nước mà nhiều khi ngược lại làm phản khí thế. Tuy nhiên nếu kẻ thù ngoan cố
xâm lược tàn sát dân ta, thời chúng ta phải xông lên tiêu diệt chúng dù cho
thịt nát xương tan, lúc này là lúc chúng ta dùng trí hơn là dùng bạo lực để hạ
chúng. Đã vào trận chiến thời có lúc thua, thua rồi để thắng, thời cái thua ấy
hữu dụng ý nghĩa vô cùng. Sức mạnh chiến đấu phải được phát huy từ lòng yêu
nước, từ nền Quốc Đạo Dân Tộc và lòng quả cảm của mỗi con người. Chúng ta có
một thứ vũ khí tối tân, hiện đại vô địch đó là Hiến Pháp Văn Lang nền Quốc Đạo
Tiên Rồng. Đất nước Văn Lang chúng ta từ ngàn xưa tới nay đều lấy đạo nghĩa trị
Quốc, lấy truyền thống hưng binh, mang dòng máu Tiên Rồng sẳn sàng vì tự do Độc
Lập mà hi sinh. Nói tóm lại giặc Ân dù cho nhiều đến đâu, hùng mạnh đến đâu
nhất định thất bại, thất bại nhục nhả, thất bại thê thảm. Vì giặc đã bước vào
đất chết thời không còn mạng sống để mà trở về. Bốn cha con Ngô Thời Đại nghe
Thục Lao thuyết trình một cách hào hùng như vậy càng thêm khâm phục. Trên thành cao nhìn về hướng Tây Bắc khói bụi mịt mù, thời biết là
quân Ân sắp kéo đến, Thục Lao. Thục Nam, Thục Di trầm tỉnh xem xét tình hình
của giặc. Tiếng quân reo ngựa hí xe cộ rầm rầm rộ rộ mỗi lúc một gần, đoàn quân
di chuyển nhanh khôn tả, mới đó mà đã đến trước cổng thành đông như kiến. Chỉ
loáng qua một cái quân Ân đã bày binh bố trận, quân binh đâu vào đấy, tuy giặc
Ân cách thành hơn hai dặm nhưng nhờ ở trên thành nên nhìn thấy rõ ràng. Quan
phủ Ngô Thời Đại nhìn thấy giặc Ân di chuyển nhanh chóng, bày binh bố trận mau
lẹ thời kinh hãi nghỉ, tên Chủ Soái giặc Ân nầy không dễ đối phó, cơ trí hơn người.
Nếu không cẩn thân thời không biết đâu mà lường có lẽ phần thất bại sẽ thuộc về
mình, bổng từ trong trận giặc dựng lên một đài quan sát mau chóng sau đó thời
xuất hiện một tướng, đầu đội kim cô, mình mang giáp sắt, cỡi con ngựa Hắc Long
Câu với thanh Đại Đao nặng hơn 60 cân oai phong lẩm lẩm, dẩn 3 nghìn quân tới
sát cổng thành khiêu chiến, hét lớn mau mở cửa thành đầu hàng thì sống, chống
lại thì chết chửi bới ôm sồm.
Trên thành cao Thục Di nói, thằng giặc này hỗn láo, để em ra thịt
nó cho rồi. Thục Lao nghỉ Thục Di là tay võ nghệ cao cường, mở màng trận chiến
phải thắng lợi để khích tướng ba quân tướng sỉ liền bằng lòng cho Thục Di ra
trận. Thục Di là người con thứ ba của Tây Thục Vương, sức mạnh tay không quật
ngã một con hổ lớn, thập bát môn binh khí đều tinh thông nhưng sở trường vẫn
là thanh Long Đao nặng hơn 60 cân, nhất là nghề bắn cung trăm phát trăm trúng,
người đời còn gọi Thục Di là thần xạ tiển đã bắn là trúng. Mẹ Thục Di là Di rất
giỏi dùng độc hấp thụ chân truyền của mẹ, kẻ đối mặt với Thục Di không chết về
Đao Kiếm cũng chết về độc.
Cổng thành Kiến Giao Châu đã mở, 3 nghìn quân Văn Lang xông ra,
Thục Di đầu đội Kim Khôi, mình mang giáp sắt, cỡi con xích thố, tay cầm Long
Đao nặng hơn 60 cân oai phong lẩm lẩm. Thục Di cỡi ngựa xông tới quát to như
sấm nổ, đồ cẩu tặc khôn hồn cút về đất Bắc sống với vợ con, bằng không ta sẽ
cho ngươi đầu lìa khỏi cổ. Tướng giặc thét lớn đồ con lợn mà cũng lên mặt sao,
nói xong giục ngựa lao tới chém một nhác như trời gián xuống đầu Thục Di. Thục
Di nào có chịu thua đưa Đao lên đở, phản công như tia chớp hét lớn xem này, tức
thời thanh Đao chơm chớp vu vu hớp hồn kẻ thù. Tướng giặc cũng không kém hoàn
Đao chống trả đùng đùng ầm ầm đinh tai nhức óc, kẻ đánh người đở, chém lia chém
lịa, người ngựa tới lui, xáp vô dội ra, xoay vòng như chong chóng, ánh Đao chơm
chớp gió bụi mịt mù kỳ phùng địch thủ, hai bên càng đánh càng hăng. Thục Di giã
thua quay ngựa chạy dài, tướng giặc đuổi theo, Thục Di quay ngựa tạc ngang,
dương cung bắn một phát, tướng ngựa bất ngờ trúng tên Thục Di lao tới chém bay
đầu.
Quân Văn Lang thắng thế ào ào xông tới chém giặc Ân xối xả, chết
la chết liệt nằm như rạ, bổng nghe tiếng quát như sấm từ trong binh lính giặc
Ân xông ra một tướng mặt mày hung dữ hét lớn nạp mạng đây, tức thời cặp song
chùy nặng hơn tạ đầy gai nhọn nhắm đầu Thục Di nện xuống như sấm, Thục Di chống
đở ê cả tay thất kinh chỉ lo né tránh, song chùy tướng giặc liên tục biến hóa
nện xuống Thục Di ầm ầm như thát đổ. Ở trên thành cao ba anh em nhà Ngô kinh
hoảng nói không xong rồi, nhìn sang anh em nhà Tây Thục vẩn thấy họ bình tỉnh
xem trận đấu, trong khi yếu thế đã nghiêng về phía Thục Di.
Nói về Thục Di thấy tướng giặc mạnh quá, song chùy tuông ra như
thát đổ phủ xuống đầu liên miên bất tận đở hết nỗi ê cả tay, liền dùng đến
tuyệt chiêu Rồng dậy biển khơi, sóng nỗi ầm ầm cuồn cuộn phủ xuống đầu tướng
giặc, tướng giặc thấy Đao pháp vô cùng lợi hại lóa cả mắt, biết là không đở
được liền thi tuyển tiệt chiêu, ma ảnh thân pháp biến mất, nghe tiếng gió sau
lưng đánh tới, Thục Di kinh hoảng hồi Đao chống trả đùng đùng ầm ầm. Biết mình
không phải đối thủ của tướng giặc, càng kéo dài trận chiến càng bất lợi, đôi
khi còn mất mạng liền thi tuyển độc chiêu ấn vào chui Đao một cái tức thời làm
khí độc vô hình tuôn ra, tướng giặc nào hay biết gì đang hăng say hạ gục Thục
Di hít nhằm khí độc xây xẩm mặt mày, song chùy chậm lại. Thục Di nào bỏ lở cơ
hội liền thi triển tuyệt chiêu vòi Rồng hút nước. Tức thời một cơn lốc xoáy nỗi
lên. Đạo pháp như tia chớp chém bay đầu tướng giặc bay đi lông lốc. Ngô Thời
Đại cùng các con lão sửng sốt kinh hải đến sững người. Nhất là Ngô Gia Đông con
lớn Quan phủ, xưa nay vẩn cho mình là con người tài giỏi. Nay mới biết mình chỉ
là ếch ngồi đáy giếng. Vỏ học và kỉ xảo mênh mông như trời biển. Cao nhơn tất
hửu cao nhơn trị. Mình giỏi còn có người khác giỏi hơn mình. Thắng liền hai
trận tiêu diệt hơn hai nghìn giặc Ân Thục Di liền thu quân trở lại thành.
Nói về Triệu Công Tiển, mới ra trận đầu chết liền hai tướng hao
tổn hơn hai ngìn quân.Thời không dám coi thường địch thủ nửa. Triệu Công tiển
nhìn cách đánh của Thục Di, thời hiểu rỏ Thục Di có nhiều tà thuật. Thời nghĩ
ngay đến Nam Tông học trò đắc ý nhất của sư phụ mình. Ở núi La Bảo Động ác xà,
liền án binh bất động không khiêu chiến nửa.
Thơ rằng:
Giặc rằng sức mạnh vạn nghìn voi
Nào có sá chi chú lợn còi
Hay đâu voi ngả hàng lớp lớp
Nụ hề đả nở Thánh Thần coi.
*
* *
Công Tiển khiếp kinh đành dừng bước
Nam Tông xuống núi dấy binh qua
Thục Di tuy có nhiều pháp thuật
Nhưng không hơn được phép yêu tà.
Mặt trời buông xuống màng đêm lại trở về khắp nẻo non sông. Vẩn
không thấy quân Ân động tỉnh gì, một sự yên tỉnh kỳ lạ.
Thục Man nghi ngờ nói: không hiểu giặc Ân đang giở quẻ gì nửa đây.
Ngô Gia Đông nói: có lẻ quân giặc đã khiếp sợ quân ta. Hoặc không
có tướng tài đối thủ, đang cầu viện binh chăng.?
Không ai trả lời được câu hỏi đó. Nên chỉ biết làm thinh. Mổi
người tự tìm cho mình một câu giải đáp.
Nhìn lên trời cao muôn vì sao lấp lánh. Thục Man bổng nhìn thấy
một vì sao chợt sáng lóe lên vụt qua không gian rồi biến mất. Thục Man thấy
lòng mình nổi lên một nổi buồn vô hạn, cái buồn thật xa xăm.
Thục Man lẩm bẩm cuộc đời con người cũng thế, thấy đó rồi mất đó.
Thế mà con người không lo tận hưởng hạnh phúc sẳn có. Mà cứ chạy theo ảo tưởng
dục vọng đâu đâu. Bỏ mạng nơi chốn quê người như lũ giặc Ân kia.
Một ý niệm giác ngộ về cuộc sống Thục Man nhìn về phía giặc Ân,
phát hiện như có một cái gì khác lạ phát lên từ phía trại giặc không ai nhìn
thấy được, chỉ một mình Thục Man thôi, Thục Man nhìn ánh sáng ấy đến xuất thần,
quên cả cái lạnh của sương đêm đang len lõi vào người.
Thục Lao nhìn thấy Thục Man như có một cái gì hơi lạ, nhưng không
hỏi chỉ im lặng nhìn Thục Man thôi, Thục Man cứ lẩm bẩm một mình chăm chú nhìn
về phía doanh trại của giặc, Thục Lao nhìn theo nhưng không hiểu gì cả, Thục
Man chăm chú nhìn thứ ánh sáng kỳ lạ ấy bay lên không trung, nhắm hướng Tây Bắc
bay đi rồi mất hút.
Đây nói về La Bảo Động ác xà, có con Rắn chúa xà Rồng tu luyện
hàng nghìn nghìn năm, chúa tể của 36 loài bò sát, thần thông pháp thuật vô cùng
lợi hại, thường sánh mình như các vị Tiên trên trời. Thu nhận ba đồ
đệ.
1: Là Man Công đại tử đệ.
2: Là Vũ Tử Như nhị tử đệ.
3: Là Triệu Công Tiển tam đệ tử.
Vũ Tử Như xuống núi cùng lúc với Triệu Công Tiển, hiện đang là
tướng soái phục vụ cánh quân ở Vi Tử Điển. Lão Chúa Tinh của loài bò sát, đang
tu thiền luyện khí trên tòa xà Rồng, bổng thấy Kim Xà bay đến đậu lên vai lão
và lão đã nhận ra con Kim Thiền của Triệu Công Tiển, liền co tay bấm quẻ nhập
định thấy Triệu Công Tiển đang lập bàn hương an khấn vái lão, lời vái như vầy.
Con là Triệu Công Tiển phò Ân, diệt nước Văn Lang, không ngờ thành Kiến Giao
Châu lại có tướng quái dị, có tài dùng độc thuộc hàng tôn sư khó có ai hơn. Lão
nghe tới đây liền quát, cái gì mà tôn sư, không có ai hơn, là con kiến thì có,
lão nghe tiếp. Xin thầy cho sư huynh là Man Công xuống núi may ra mới địch lại.
Lão nghe tới đó liền quát tháo ầm ĩ. Cái gì mà may với không may, đề cao thằng
nhái ranh nào đó quá. Trong lúc lão đang quát tháo, thời lão thấy một con mãng
xà to lớn đến trước lão khóc lóc. Xin Chúa Tinh hồi phục chân khí cho thuộc hạ,
thuộc hạ chết oan do quân Nam sát hại, thuộc hạ muốn trả thù nhưng không tới
gần được vì có hào quang chánh khí bao bọc lấy thân của ả, con muốn đầu thai
làm Rắn tu luyện trở lại, nhưng vì hận thù thiêu đốt đầu thai chưa được, nói
xong hồn mãng xà tinh khóc thê khóc thảm. Chúa Tinh nói ta sẽ hồi phục chân khí
cho ngươi, để ngươi trả thù, nói xong Chúa Tinh truyền sang thần lực, khí lực,
hồn mãng xà tinh liền hiện rõ nguyên hình, mắt thường người thường đều có thể
nhìn thấy được, xà tinh mừng quá lạy tạ Chúa Tinh rồi biến mất. Lão lại thấy
hồn một con trăn to lớn xuất hiện khóc lóc thê thảm xin Chúa Tinh cứu vớt linh
hồn thuộc hạ, thuộc hạ bị chết oan, ngọn lửa hận thù thiêu đốt đầu thai không
được, thuộc hạ khổ lắm, nói xong thời khóc thảm thiết. Chúa Tinh nói ta sẽ hồi
phục chân khí cho ngươi để ngươi trả thù, nói xong Chúa Tinh phất tay truyền
sang thần lực, khí lực, hồn trăn tinh liền hiện rõ nguyên hình. Trăn Tinh mừng
quá lạy tạ Chúa Tinh rồi biến mất.
Lão lại thấy hồn một con bò cạp to lớn xuất hiện, khóc lóc thê
thảm xin chúa tinh cứu vớt linh hồn. Chúa tinh nói ta với ngươi khác loài khác
giống, khó mà hồi phục, một con bò cạp to xuất hiện, khóc lóc thê thảm xin Chúa
Tinh cứu vớt linh hồn, Chúa Tinh nói ta với ngươi khác loài khác giống, khó mà
hồi phục thần lực, khí lực cho ngươi được, lão nỗi cơn thịnh nộ nói, con dân
Văn Lang xưa nay ỷ tài cậy thế con cháu nhà trời, tàn sát Yêu Tinh, Quỹ Quái
nhà ta, nay phước đức Văn Lang giảm sút, khí thiên sông núi không còn hưng
thịnh như ngày xưa, Hồng Quang nền Quốc Đạo mờ nhạc, đây là thời cơ Yêu Tinh,
Quỹ Quái trả thù. Cách đây gần 2 nghìn năm Tam Tinh Chúa Tổ tu luyện đến chỗ hư
vô tạo hóa xoay chuyển Càn Khôn Thiên Địa.
1: Là Chúa Tổ Mộc Tinh.
2: Là Chúa Tổ Ngư Tinh.
3: Là Chúa Tổ Hồ
Tinh.
Đã bị Lão con Trời xác hại, nay Lão về Trời trốn trên đó, thời con
cháu của Lão phải nhận hậu quả, nay ta cho Man Công xuống núi giúp Chúa Tổ Hồ
Tinh, đã đầu thai làm người, đang dốc toàn lực tiêu diệt nước Văn Lang cùng
Chúa Tinh Tổ Nữ. Ta và ngươi tuy khác giống nhưng ta sẽ giúp cho linh hồn ngươi
giảm bớt đi áp lực Vũ Trụ để linh hồn ngươi bớt khổ chờ có cơ hội đầu thai làm
người để trả thù. Nói xong Chúa Tinh phất tay một cái, linh hồn bọ cạp không
còn đau nhứt nữa, áp lực Vũ Trụ đã giảm, hồn bọ cạp mừng quá lạy tạ Chúa Tinh
rồi biến mất.
**************
PHẦN 34
Ở vào thời nhà Hạ, nơi huyện Cao Mai có một thiếu niên. Thờ con
vật nữa thú, nữa cầm thì ra Chồn, Cáo có cánh chín đuôi, hể người nào dân cúng
gà sống, trẻ con sống thời cầu chi được nấy linh nghiệm vô cùng. Thời ấy có vị
quan nỗi tiếng nhơn đức liêm khiết mà còn hết mực thương dân, ông ghét kẻ dua
nịnh nhất là tà ma ngoại đạo chuyên làm hại con người.
Ông nghe nói huyện Cao Mai có miếu linh thờ con Chồn, Cáo có cánh
chuyên thu nhận đồ cúng tà quái, làm thiệt hại không biết bao nhiêu là trẻ con,
ông nỗi trận lôi đình dẩn theo binh lính tới đập phá, đập con Chồn, Cáo có cánh
tan nát nát tành. Con quái nữa cầm nữa thú giận đến phát cuồng nhưng không làm
gì được ông Khiết, vì có hào quang chính khí lúc nào cũng bao bọc lấy ông. Từ
đó con quái thú ẩn hồn trong các sơn động chờ cơ hội trả thù và chờ mãi cho đến
khi đời Thái Ất cũng chưa trả thù được. Cho đến đời thứ 27 cháu nhiều đời của
Thái Ất tức là Đế Ất hiệp với con số Chín (9). Con quái thú liền đầu thai làm
con thứ 3 của Đế Ất, phá tan cơ nghiệp nhà Thương tàn sát con cháu nhà Thương,
giết hại Trung Lương là những người quân binh thời ông Khiết, đập phá miếu thù
con quái thú Chồn, Cáo chín đuôi ở thời Nghiêu, Thuấn nhà Hạ. ÂN THỌ là con thứ
ba của Đế Ất, hung bạo xão trá vô cùng, có 10 điều bậc
nhất.
1: Ác nhất.
2: Mạnh nhất.
3: Dâm nhất.
4: Cuồng ngông tàn bạo nhất.
5: Thủ đoạn nhất.
6: Ăn chơi xa xỉ nhất.
7: Tà đạo nhất.
8: Tham lam ngạo mạn nhất.
9: Sát phạt chém giết nhất.
10: Giả nhân giả nghĩa nhất.
ÂN THỌ quét sạch trung thần nhà Thương, thu nạp Yêu, Tinh, Quỹ,
Quái làm chấn động địa cầu thời đó. ÂN THỌ cùng các loại yêu tinh dốc tâm phá
tan cơ nghiệp Vua Hùng, gồm thâu thiên hạ về một mối, làm được công việc đó
hay không còn xem cơ vận của tạo hóa.
Chiến trận còn vang khắp nước non
Chống giặc ngoại xâm, mất một còn
Quân reo ngựa hí, rền sông núi
Giữ gìn Tổ Quốc, phận cháu con
Một người ngã xuống, muôn người đứng
Xả thân vì nước, chết vinh quang
Hồn về thiên giới, chầu Tiên Tổ
Hiếu trung, trung hiếu tấm lòng son.
Nói về Thục Mân, Thục Cương, theo lịnh của Diệp Lang dẩn 4 vạn
quân tới huyện Hà Giang, rừng Hà Lâm, hiệp với 4 vạn quân ở đây, không bao lâu
thời tới nơi, đã cho quân thám báo báo trước, nên ba vị tướng quân ra đón Thục
Mân, Thục Cương vào doanh trại vừa an vị xong tuần trà. Thục Mân liền ra lịnh
tiến quân bao vây thành Tây Dương Châu, thời có một tướng phản đối. Tôi không
phải là quân của tướng quân. Thục Mân tỏ vẽ bất bình tức giận, nhưng sực nhớ ra
điều gì liền xin lỗi, tôi xin lỗi Mường Thái tướng quân vì tình hình quá khẩn
cấp tôi đã quên một việc rất quan trọng, liền lấy kiếm lịnh ra, vừa thấy kiếm
lịnh bốn tướng đều quỳ xuống cung kính thưa, chúng tôi xin nghe lịnh của tướng
quân .
Các tướng nghe lịnh: Có thuộc hạ, các tướng cấp tốc, tướng nào dẩn
quân nấy, phân chia lực lượng, năm mủi giáp công bao vây thành Tây Dương Châu
nội trong đêm nay trước khi trời sáng. Tuân lịnh.
Thục Cương được sắp xếp tới thành muộn hơn vì dọc đường còn tiêu
diệt các ổ quân do Chu Công Minh cài lại các nơi chủ chốt yếu điểm, việc làm
tưởng như dễ, nhưng thật ra rất khó, cái khó ở đây là tiêu diệt gọn sạch các ổ
nhốm không để cho một tên nào chạy thoát. Thục Cương tiển lựa ra một đội quân
thần tốc, võ nghệ cao cường do mình trực tiếp chỉ huy dọn sạch đội quân thám
báo của giặc không còn một tên trốn thoát, nếu còn tên nào còn sót, thời bị 2
vạn quân thần tốc càn quét do Thái Nga chỉ huy ở sau.
Đây nói về Thục Châu chạy thục mạng binh lính cũng chạy theo, quân
Ân rượt đuổi chém giết xối xã đến khi không chạy được nữa vì trước mặt cây cối
chằng chịt mới hay đã lạc vào rừng, nhưng Thục Châu nào có biết đây là rừng gì,
địa phận nào cũng không rõ, cây cối rậm rạp không biết lối ra. Lại nghe tiếng
cọp gầm, sói hụ, nghe thấy mà rợn người, phần thì trời tối, mỗi lúc một đen
thui đen thủi, cây cối rậm rạp che khuất ánh sao càng thêm tối mù tối mịt.
Không còn con đường nào tốt hơn là cột ngựa vào gốc cây rồi leo lên cây mà
nghỉ, vì quá mệt nên Thục Châu ngủ thiếp đi hồi nào không hay, đến khi tỉnh
giấc thời mặt trời đã lên cao, chim ca vượn hú vang động khu rừng. Thấy bụng
đói vội vả hái tạm quả rừng lót bụng, Thục Châu nghỉ đây là đâu nhỉ, liền dắt
ngựa tìm đường ra, đi cho tới trưa mà chưa ra được khu rừng. Bổng nghe tiếng
lào xào, hình như là có người, đông nữa là khác, liền dừng ngựa rút kiếm cầm
tay nghe ngóng, có người nói ta thấy tướng quân chạy vào rừng. Người khác nói
đã nữa ngày sao không thấy tướng quân ra hay là, một tên khác quát nói bậy,
nghe giọng nói quen quen Thục Châu vô cùng mừng rở, thì ra đây là quân lính
tướng tá của mình, đó là đội kỵ binh hơn 1 nghàn người chạy theo sau Thục Châu,
tới đây thời không thấy tướng quân Thục Châu đâu nữa vì trời sắp tối nên không
dám xông vào rừng chỉ ở ngoài canh phòng.
Thục Châu nhận ra binh sĩ của mình mừng quá la lớn, ta đây này, ta
đây này. Thế là đội quân kỵ binh ùa vào thấy tướng quân Thục Châu đang dắt ngựa
đi ra. Thục Châu nhìn đội quân kỵ sỉ còn nguyên thời rơi nước mắt. Thục Châu
than thở, 2 vạn 5 nghìn quân không biết sống chết ra sao, Thục Châu ra lịnh
chúng ta mau đi tìm anh em thất lạc.
Khi tìm tới khu rừng Còi thời nghe tiếng quát to như sấm. Bắn:
Thục Châu nghe tiếng quát thời nhận ra tiếng A PHA, tướng đội quân xạ tiển, A
PHA nghe tiến tướng soái Thục Châu liền hô dừng tay, thế là đội quân xạ tiển
chủ lực ùa ra hơn 5 nghìn quân.
Thục Châu mừng quá không cầm được nước mắt liền vái tạ Trời Đất,
Thục Châu chia lực lượng binh lính tìm những anh em còn thất lạc, tìm cho đến
tối thời chỉ tìm được 1 vạn 5 nghìn quân, còn 1 vạn quân nữa Thục Châu nghỉ đã
chết dưới tay giặc, thời không khỏi bùi ngùi xúc động, để tìm hiểu nơi đây là đâu,
liền cho người dọ hỏi, thời được biết địa phận khu vực này thuộc huyện Sầm
Hưng, còn khu rừng rộng lớn trước mặt là rừng Sầm Dương thuộc địa phận Tam
Giang Tây Châu.
Thục Châu hỏi từ đây đến Trúc Giang bao xa. Bẩm tướng quân thuộc
hạ hỏi rồi chỉ hơn 18 dặm, Thục Châu nghỉ không còn con đường nào khác hơn là
rút quân về Tam Giang Tây Châu tìm phương kế khác chống giặc. Đi được hơn bảy
dặm, thời thấy một đội quân bề thế tả tơi, Thục Châu nhận ra đó là đội quân của
anh mình Thục Liêu, Thục Liêu cũng nhận ra cánh quân của Thục Châu, liền giục
ngựa đến mừng mừng tủi tủi, khi hỏi nhau về quân số tổn thất, Thục Liêu, Thục
Châu cùng thở dài nói 5 vạn quân giờ chỉ còn 3 vạn. Có thể nói một sự tổn thất
nặng nề, phương tiện chiến tranh, lương thực, vũ trang dự bị đều hết sạch, 10
vạn quân giờ chỉ còn có 3 vạn, thê thảm, thất bại thê thảm.
Nói về Tây Thục Vương đóng quân tại Tam Giang Tây Châu, Trúc
Giang, một trong những Châu không có thành, Tây Giao Chỉ, Tây Bắc Văn Lang. Tây
Thục Vương lo lắng ngày đêm đến nỗi ăn không ngon ngủ không yên, từ khi biết
thành Tây Dương Châu thất thủ, ba đứa con sống chết ra sao chưa rõ, đang cho
quân dọ thám thu nhập tin tức từng phút từng giờ. Đang lúc lo lắng đến cực
điểm, thời có quân vào báo. Bẩm Vương Gia, bẩm Vương Gia tướng quân Thục Liêu,
Thục Châu đang kéo quân trở về cách đây hơn năm dặm. Tây Thục Vương mừng quá
cùng các quan tướng ra đón Thục Liêu, Thục Châu cách doanh trại hơn hai dặm.
Nhìn thấy quân binh xơ xác thời ông đã hiểu, cha con gặp nhau nước mắt tuôn
trào. Nhìn căn trại to lớn thời ai cũng hiểu đó là căn trại hội họp các quan
tướng, mà đúng vậy các quan tướng hầu như có mặt đầy đủ, ai nấy yên lặng, cái
yên lặng hồi hộp chờ đợi lắng nghe anh em nhà Tây Thục kể lại sự vụ thất thủ
thành Tây Dương Châu mau chóng đến thế. Thục Liêu, Thục Châu kể lại tất cả
không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào. Tây Thục Vương nghe xong thở dài, chuyện này
có nhiều ẩn khúc. Các quan nói nếu cuộc chiến giao tranh xảy ra, quân Ân cũng
khó mà lấy thành ngay được, ít ra cũng phải vài ngày, đó là nói quân Ân đông
hơn ta gấp bảy gấp tám lần, lại pháo trên thành không bắn lên, chuyện này còn
ẩn khúc mờ ám chưa thể kết luận được. Các quan tướng có vắt óc suy nghỉ nhưng
tìm mãi không ra lý do xác đáng chứng minh dẩn đến sự thất thủ thành Tây Dương
Châu, đi tiêu 7 vạn quân, thiệt hại về người về của to lớn vô cùng.
Trong lúc các quan tướng ai nấy cố suy nghỉ, thời có quân thám báo
từ thành Tây Giang Châu trở về dân lên bức mật thư của Diệp Lang gởi cho, Tây
Thục Vương đọc xong mật thư, sắc mặt sát khí đến rợn người nói. Quân Ân ỷ mạnh
hiếp người, xâm lược tàn sát dân ta, thời chúng sẽ không còn một tên sống sót
trở về. Tây Thục Vương nhìn Thục Liêu, Thục Châu nói hai con xác nhập vào cánh
quân của cha làm tả hửu tiên phong. Có lẽ theo kế sách mà hai cha con chưa thực
hiện được đã thất bại là trong đánh ra ngoài đánh vô, kẹp quân Ân vào giữa,
phương pháp này sẽ áp dụng thực hiện tại chiến trường Kiến Giao Châu, quét sạch
lũ ngoại xâm, trả thù rửa hận cho dân tộc, cho những người đã bị chúng sát hại.
Đây nói về hai cao thủ võ nghệ cao cường, kinh công thuộc hàng
thượng đẳng, thuộc đội cận vệ bảo vệ Diệp Lang, phái đi theo tên thám báo bảo
vệ bức mật thư Diệp Lang gởi cho Tây Thục Vương. Khi tên thám báo đã vào doanh
trại Tam Giang Tây Châu, thời coi như hai tên bảo vệ mật thư đã hoàn thành,
liền quay trở về đội cận vệ báo cáo tình hình. Trên đường trở về trong lúc thi
tuyển kinh công lao đi vù vù lúc ẩn lúc hiện như Ma Quỹ, bổng phát hiện một
bóng người lén lút cõng một người, đi một đoạn thời quỳ xuống, hình như tên
cõng đã kiệt sức. Hai người như hai bóng ma theo sát, chừng phát hiện hai người
lén lút kia mặc đồ giặc Ân. Người lớn con hơn nói, thì ra là chúng mày, người
nhỏ con hơn nói giết chúng đi, thời giờ đâu mà theo dõi bọn chúng, người lớn
con hơn nói hình như tên cõng kia đang kể lể khóc, để xem tên đó nói cái gì rồi
sẽ giết. Tên cõng đứng lại nghỉ, sờ lỗ mũi người nằm bất động trên lưng khóc
thê thảm. Con lạy mẹ Âu Cơ, xin mẹ cứu tướng quân con, tướng quân cố lên chỉ
còn hơn buổi nữa là sẽ đến Tam Giang Tây Châu, nói rồi khóc, khóc rồi nói. Như
sực nhớ ra điều gì, có lẽ hai người kia là quân Văn Lang thất lạc rồi, họ là ai
thế, sao gọi người nằm kia là tướng quân. Hai người liền xuất hiện, thấy có người
xuất hiện đột ngột, tên khóc kia thất sắc, liền rút kiếm bảo vệ, để người sắp
chết kia xuống đất, sẳn sàng chiến đấu, không kể gì đến sinh mạng của mình.
Thời cũng đoán được người nằm bất động kia địa vị rất quan trọng. Người nhỏ con
hỏi, ngươi là ai? Người nằm kia là ai? Sao lại mặc y phục quân Ân? Tên lính
nghe hỏi nhưng vẩn làm thinh, hai người hỏi đi hỏi lại mấy lần nhưng tên ấy vẩn
yên lặng. Biết không thể hỏi gì được, còn kéo dài thời mất thời gian, với thủ
pháp mau lẹ điểm huyệt tên lính mỗi người bế cõng một người dùng thuật kinh
công thượng thừa lao đi như bay. Tuy bị điểm huyệt nhưng tên lính trung thành
kia vô cùng tỉnh táo, thấy rõ hành động của hai người xa lạ không có ý hại mình
nhưng họ đưa mình đi đâu chưa rõ. Đến lúc thấy đại quân đang duy chuyển chầm
chậm không có gì là vội vả và đã nhận ra đây là quân Văn Lang, thời mừng rỡ
tướng quân ta thoát nạn rồi nhưng không hiểu là cánh quân nào đây, như người
sắp chết đuối vớ được cái phao, cảm xúc ứa nước mắt. Tới rồi Đức Vương Tôn kia
rồi họ liền để hai người xuống, đi thẳng tới người cỡi con ngựa trắng hành lễ,
bẩm Vương Tôn thuộc hạ đã hoàn thành nhiệm vụ trở về. Diệp Lang hỏi hai người
kia là ai? Hai tên cận vệ liền kể lại đầu đuôi sự tự, thuộc hạ nghĩ hai người
nầy một người có địa vị rất quan trọng, có lẽ là quân Tây Dương Châu thất
lạc. Diệp Lang nghe nói thế xuống ngựa tới xem mặt thấy hơi quen, liền hỏi tên
lính, thấy tên lính nằm yên đứng dậy không được, như hiểu ra điều gì Diệp Lang
liền giải huyệt cho y, y đứng dậy tới trước Diệp Lang quỳ xuống khóc lóc nói,
xin Đức Tôn Vương cứu mạng Chủ Soái tướng quân thuộc hạ, Diệp Lang kinh ngạc
Chủ Soái? Ngươi nói người nằm kia là Chủ Soái sao? Diệp Lang hỏi. Bẩm Tôn Vương
đúng vậy, Chủ Soái tướng quân thuộc hạ tên là Thục Chăm. Diệp Lang la lên một
tiếng, liền tới bắt mạch lắc đầu nói hết cứu được rồi. Tên lính nghe thế khóc
thảm thiết rồi ngã lăng ra bất tỉnh, lát sau thời tỉnh dậy ôm lấy Thục Chăm mà
khóc. Nhìn tên lính bơ phờ xơ xác, có vẽ vì kiệt sức, vì đói khác, vì thương
tâm nên xơ xác tiều tị đến thê thảm. Diệp Lang cảm đông hỏi ngươi tên là gì?
Bẩm Đức Tôn Vương thuộc hạ tên là A Lưới, thôi ngươi đừng khóc nữa, để ta nghỉ
cách cứu cho, tên lính lạy tạ Diệp Lang rồi ngồi bên cạnh cái xác bất động của
Thục Chăm, ai nhìn thấy cũng cảm động, tấm lòng vì chủ trung thành của A Lưới.
Diệp Lang nghỉ loại độc này cũng dễ chữa nhưng vì quá lâu, độc đã ngấm tới tận
xương tỷ chỉ có thuốc tiên mới cứu được, à phải rồi liền nhớ ngay đến Ngọc
Thiên Hương.
Chí Vĩ: Có thuộc hạ, ngươi mau mời Thiên Hương tướng quân
cùng Lạc Tiên tướng quân đến đây bàn chút việc. Tuân lịnh. Không bao lâu thời
Thiên Hương, Lạc Tiên đến, Ngọc Thiên Hương nói, Đích Tôn gọi thuộc hạ đến có
điều chi dạy bảo. Diệp Lang chỉ cái xác bất động nói, Ngọc tướng quân xem thử
có cứu được người nầy không? Ngọc Thiên Hương bước tới nhìn cái xác một hồi,
rồi cầm tay bắt mạch lắc đầu nói, người nầy sắp chết đến nơi, các kinh mạch bị
đứt hết rồi. Diệp Lang thở dài nói, người nầy chính là Chủ Soái thống lảnh đại
quân ở thành Tây Dương Châu, Thục Chăm con thứ tư của Tây Thục Vương, không
hiểu vì sao ra nông nỗi nầy. Ngọc Thiên Hương thất kinh nói có phải người nầy
nỗi tiếng là Thần trí huệ đó không? Diệp Lang nói phải chính là người nầy, nếu
là người nào khác thời ta không dám làm phiền đến nàng vì ta nghỉ chỉ có thuốc
tiên mới cứu được Thục Chăm mà thôi.
Nghe Diệp Lang nhắc đến thuốc tiên. Ngọc Thiên Hương liền lấy
trong mình ra một lọ hồ lô nhỏ dốc ra một viên linh đơn giải độc, đưa cho Diệp
Lang cứu Thục Chăm. Diệp Lang nhận viên linh đơn bước tới xác Thục Chăm, dùng
thần công đẩy viên thuốc xuống bụng, mầu nhiệm thay chưa đầy một tuần trà,
Thục Chăm đã khỏi hẳn ngồi dậy như người khỏe mạnh, chẳng trúng độc gì cả, ai
nấy cũng lấy làm kinh ngạc, đúng là thuốc Tiên. Thục Chăm như vừa trải qua một
cơn ác mộng đứng dậy hỏi đây là đâu? A Lưới mừng quá la lên Chủ Soái khỏi chết
rồi, khỏi chết rồi, Thục Chăm nhận ra A Lưới nói ngươi đó sao? Bẩm Chủ Soái
chính là thuộc hạ, A Lưới giới thiệu đây là Đích Tôn Vương Tử người vừa cứu
mạng Chủ Soái. Thục Chăm nghe ba chữ Đức Tôn Vương thời kinh hãi, lại thêm cứu
mạng, Thục Chăm lạy tạ nói bẩm Tôn Vương thuộc hạ may nhờ Tôn Vương cứu mạng,
cũng như cha mẹ sinh ra lần nữa.
Diệp Lang nói người cứu tướng quân không phải là ta, mà là A Lưới
cùng hai vị tướng quân kia cũng như Ngọc Thiên Hương tướng quân đây, Thục Chăm
cảm ơn thi lễ lạy tạ.
Diệp Lang nói chúng ta là con dân Văn Lang, con cháu Tiên Rồng,
hết lòng vì non sông xã tắc, hết lòng vì nền Quốc Đạo dân tộc ra sức chống giặc
ngoại xâm là việc làm cao cả Trời, Đất, Thần, Thánh, Tiên, Phật đều cảm động
nên Chủ Soái mới có những điều may mắn như vậy. Thục Chăm được phục vụ ăn uống
no nê cùng A Lưới, tắm rửa sạch sẽ thay quần áo mới, tinh thần sản khoái vô
cùng, liền vận thử công lực vô cùng kinh ngạc, thấy thần lực của mình tăng lên
gấp bội, thời nhớ lại câu chuyện Thần Thánh ở thời xa xưa do cha mẹ kể lại.
Nếu uống được một viên linh đơn thuốc Tiên, thời bách độc không
xâm hại được, thần lực tăng gấp đôi, tuổi thọ tăng lên chín mười tuổi, Thục
Chăm nói quả là đúng thuốc Tiên rồi. A Lưới kinh ngạc sao Chủ Soái biết. Thục
Chăm làm thinh không nói, hồi tưởng lại những gì đã xảy ra, thời có người đến
nói, mời tướng quân cùng A Lưới theo tôi. Thục Chăm, A Lưới được dẩn đến một
chổ đông người, hầu như các vị tướng lỉnh đều ở đây. Thục Chăm chào hỏi xong an
vị chỗ ngồi. Diệp Lang nói Thục tướng quân hãy kể hết đầu đuôi sự vụ tai nạn
xảy ra tại thành Tây Dương Châu, không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào. Thục Chăm
kể lại tất cả, kể tới đâu các quan tướng đều phẩn nộ tới đó, có người đã lên
tiếng chửi rủa cha con Hửu Tài, đáng tội chết muôn lần đồ phản nước hại dân, kể
tới đây nhớ lại các tướng trào máu họng mà chết, trong khi quân Ân ồ ạc xông
vào như nước vỡ bờ, 5 vạn quân đi đời chết thê thảm, Thục Chăm không cầm nỗi
giọt nước mắt nói còn sau đó thời thuộc hạ không hiểu gì hết, thuộc hạ nhớ
trước khi bất tỉnh, thuộc hạ đã giết được thằng con trai lớn của lão Hửu Tài
tên là Hai Nháo.
A Lưới kể tiếp, khi Chủ Soái bất tỉnh thời trên 30 tên giặc Ân giã
dạng quân ta, ùa tới sát thủ chủ tướng, nhưng binh lính của ta đã xông lên thét
lớn, đồ phản phúc giết giết thế là trận chiến trong nội thành lôn xộn xảy ra,
nhân lúc lộn xộn liền cõng chủ tướng núp vào một xó, nghe gươm Đao giáo mác
dậy trời, dậy đất thì ra quân Ân đã tràng vào thành đông như kiến, lớp leo
tường, lớp từ cổng chính ùa vào, quân ta tuy rắn mất đầu, các tướng đã trúng
độc chết hết nhưng vẫn chiến đấu anh dũng gào thét tiến lên tiêu diệt quân thù,
lớp này ngã xuống, lớp khác xông lên còn hơi thở là còn chiến đấu tiến lên,
tiến lên.
Sôi sùng sục, chỉ quân thù thét lớn
Nào tiến lên, quyết chiến lũ giặc Ân
Nào tiến lên, nào gào thét xung phong
Còn hơi thở, ta vẩn còn chiến đấu
Còn lũ giặc, ta vẫn còn quyết chiến
Theo Vua Hùng, nối chí của cha ông
Vùi quân thù, xuống tận đáy âm cung
Hãy xông lên, một niềm tin chiến thắng
Tiến xung phong, nhắm quân thù mà bắn
Vùi quân thù, xuống tận đáy âm cung.
Quân ta tử chiến anh dũng, giặc Ân lớp lớp ngã nhào, trận chiến
càng lúc càng khốc liệt, thuộc hạ bò ra kéo xác quân Ân, lột lấy áo quần của
chúng, thay đổi y phục giã làm quân Ân, cõng chủ tướng trốn thoát. Quân Ân nhìn
thấy nhưng chúng ngở là quân của chúng bị thương cõng chữa trị, vừa ra khỏi
cổng thành ẩn vào xó giã chết vì lúc đó quân Ân đông như kiến, gươm giáo dậy
trời chận đánh hai cánh quân Thục Liêu, Thục Châu tướng quân. Cuộc chiến giao
tranh xảy ra vô cùng khốc liệt và hình như quân chiến thắng rượt đuổi quân ta
thê thảm, trong quân binh hổn loạn hướng Đông, Nam, tôi cõng chủ tướng theo
hướng Tây để tránh giặc, sau đó nhắm hướng Đông, Nam cõng chủ tướng đi vì đã
không ăn ba ngày, ba đêm, thuộc hạ đã kiệt sức cõng Chủ Soái đi không nỗi nữa
ngã lên ngã xuống, phần sợ giặc phát hiện nên thuộc hạ lén lén lút lút, ráng
cõng chủ tướng một khúc là quỵ ngã. Nghe A Lưới kể ai cũng rơi nước mắt, cảm
động trước tấm lòng trung thành hết lòng vì chủ của gã.
Diệp Lang nghe A Lưới kể xong liền khen, ngươi quả là trang anh
hùng cứu chủ, thuộc hạ bật nhất từ xưa đến nay, đáng được thưởng vàng ròng lụa
gấm, nhưng nơi chiến trường không có những thứ đó, ta có viên trân châu tặng
ngươi, ngươi đáng được tôn vinh ca ngợi. Các quan tướng ai nấy cũng cảm thấy A
Lưới được xứng đáng nhận vinh dự nầy, một phần thưởng vô cùng cao quí mà ai
cũng mơ ước để có. A Lưới sửng sờ rơi nước mắt trước phần thưởng cao quí nầy,
không những nỗi danh mà còn cả lợi nhận lảnh phần thưởng cao quí, bước tới quì
lạy nhận lảnh viên trân châu to lớn đáng giá nghìn lượng vàng. Diệp Lang hỏi,
Thục tướng quân đã khỏe mạnh, tướng quân định thế nào? Bẩm Tôn Vương cho thuộc
hạ theo đại binh đánh thành Tây Dương trả mối hận cho 5 vạn quân binh. Diệp
Lang nhận lời. Thục Chăm lễ lạy lui ra, viết vội phong thư kể rõ thất bại thành
Tây Dương Châu giao cho A Lưới đem đi.
**************
PHẦN 35
Đây nói về Thiệu Công Tiển, thấy sư huynh Man Công xuất hiện mừng
khôn tả. Nịnh bợ nói, đã có sư huynh đến đây, thời coi như thành Kiến Giao Châu
coi như đã thuộc về mình. Liền cho người dân món ngon vật lạ thiết đãi sư
huynh. Không dân gái đẹp vi hiểu rõ Man Công không thích phụ nữ, mà chỉ thích
ăn uống món ngon vật lạ mà thôi. Thiệu CôngTiển là người khôn ngoan, đa mưu túc
trí, dụng người dụng binh khôn khéo khó mà lường trước được. Tuy bước đầu ra
quân thất bại, đi tiêu hai tướng bỏ mạng hơn 2 nghìn quân, nhưng Triệu Công Tiển
không cho đó là thất bại mà cho đó là con mồi làm cho đối thủ xem thường, đối
thủ càng xem thường thời sự thành công càng lớn, để con cá nhỏ lọt lưới bắt con
cá lớn mà thôi. Trời đã khuya, sương rơi rỉ rả bay lọt vào phòng, lăng lõi vào
người truyền hơi lạnh đến thớ thịt làn da. Thục Man ngẩm nghỉ, ánh sáng kia là
gì nhỉ, nó bay về hướng Tây Bắc để làm gì, bên đèn dầu Lạc Thục Man đã chìm sâu
trong hồi tưởng quên cả khí lạnh đang dồn vào phòng mỗi lúc một tăng. Nghe
tiếng gà gáy kêu gọi ông mặt trời, có lẽ giờ này đã là canh tư, hai con mắt
nặng triểu đi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Một giấc ngủ toàn là cơn ác mộng,
thấy mình bị một con rắn nhỏ xíu cắn phải, trong vòng vây trùng trùng của
giặc, bị tướng giặc chém trúng một Đao. Thục Man thét lên một tiếng kinh hoàng
làm giật mình những người xung quanh, Thục Man tỉnh giấc nghỉ thì ra đây là
một cơn ác mộng. Ánh bình minh thức dậy, ánh vàng hồng đã rừng rựng phương
đông. Thục Man cảm thấy mệt mỏi vì một đêm ít ngủ lại toàn là chiêm bao ác
mộng, nhìn bầu trời âm u, Thục Man nghỉ mới hôm qua trời nắng chang chang,
nhưng hôm nay đã khác đất trời u ám, Trời Đất mà còn thế huống chi là cuộc đời
con người, họa phúc luôn rình rập kề bên, nhân duyên tan hợp như mây như khói.
Một cơn gió nhẹ đánh tan suy tưởng của Thục Man, Thục Man tỉnh táo khỏe khoắn
hẳn lên thở phào nhẹ nhổm. Thục Man nhìn về phía doanh trại của giặc vẫn im
lặng, một sự im lặng đến kỳ quái. Bổng nghe tiếng chiêng trống vang rền từ nơi
trại giặc xông ra một tướng, cỡi con ngựa hồng cực đẹp, tướng giặc đầu đội Kim
Khôi, mình mang giáp đồng tay cầm Đại Đao, oai phong lẩm lẩm dẩn 3 nghìn quân,
kéo đến trước cổng thành la hét chưởi quân Nam thậm tệ. Thục Di nỗi trận lôi
đình để em ra trận giết thằng giặc hỗn láo đó cho rồi. Thục Man nói để thằng giặc
đó cho anh, em đã ra quân thắng liền hai trận nghỉ để dưỡng sức, anh ra lấy đầu
thằng giặc này làm khiếp đảm bọn chúng. Thục Lao dặn, em ra trận hết sức cẩn
thận, nghe nói Triệu Công Tiển là tay không vừa gì đâu, lắm mưu nhiều kế. Thục
Man gật đầu anh yên tâm. Cổng thành đã mở, quân Nam rùng rùng kéo ra, đi đầu là
Thục Man, đầu đội Kim Khôi, mình mang giáp đồng, cỡi con ngựa ô to lớn khỏe
mạnh, tay cầm trường thương nặng hơn 60 cân, oai phong lẩm lẩm cùng năm nghìn
quân ồ ạc xông ra lao thẳng về phía giặc Ân. Tướng giặc cũng không kém, điều
khiển binh lính xông lên, thế là quân đánh với quân tướng đánh với tướng.
Long Hổ đấu nhau thật kinh thiên
Gió dậy sấm tuông chốn trận tiền
Quân gào Kiếm thét rền sông núi
Đầu rơi máu đổ, khắp triền miên
Ba quân tướng sỉ, kìa xông tới
Long tranh Hổ đấu dậy bình nguyên
Chiến trận ầm vang, rền gươm giáo
Quân Nam lấn thế giặc ngữa nghiêng.
Thục Man giục ngựa xông tới thét lớn, lũ ác ôn nạp mạng đây,
trường thương múa lên vù vù hòa theo vó ngựa rồm rộp cát bụi tung bay mịt mù.
Tướng giặc không kém ra đòn chơm chớp chống đở tấn công tới tấp, hai bên càng
đánh càng hăng, bất thình lình tướng giặc chém một Đao chí tử rồi quay đầu bỏ
chạy thục mạng, binh lính giặc Ân thấy thế cũng chạy theo. Quân Văn Lang thắng
thế xông lên rượt chém quân Ân xối xả. Thục Man hăng máu rượt đuổi chém liền
mấy nhát, tướng giặc hình như đã lường trước nên né tránh không mấy khó khăn.
Bổng nghe ngựa hí vang trời quân reo dậy đất, đội quân thiết giáp của giặc phục
kích từ hai bên cánh gà tỏa ra nhanh chóng bao vây chận đứng đường rút lui quân
Nam, cũng như phong tỏa thành Kiến Giao Châu có đội quân thiết kỵ binh chủ lực
yểm trợ. Quân Ân nhanh như chớp túa ra bao vây 5 nghìn quân Văn Lang cùng Thục
Man vào giữa, mỗi lúc mỗi siết chặt vòng vây, quân Văn Lang ra sức chống cự,
nhưng mỗi lúc một yếu thế.
Thục Lao, Thục Di đứng trên thành nhìn thấy cảnh đó thời thất kinh
hồn vía. Thục Lao cùng Thục Di kéo quân ra tiếp ứng giải vây, có lẽ Triệu Công
Tiển đã lường trước sự việc nên đã đưa đội quân chủ lực hùng mạnh, phong tỏa
lối ra vào cổng thành. Trước sức mạnh của đội quân chủ lực cùng đội quân thiết
giáp của giặc, tuy quân Văn Lang ùa ra đông như kiến nhưng đều bị đánh bật trở
lại tổn thất khá nặng nề. Tình thế nguy cấp, Thục Di sốt ruột giải vây cho Thục
Man cùng 5 nghìn quân chủ lực thiện chiến xông lên, với đường Đao biến ảo xé
gió ù ù cuồn cuộn chém xối xả vào đội quân thiết giáp. Những tiếng ầm ầm liên
miên nỗi lên, đội quân thiết giáp của giặc không những không bị đánh bật mà còn
tạo thế liên hoàng tấn công, 5 nghìn quân chủ lực Văn Lang tiến lên không nỗi.
Thục Di ức khí xông lên thét lớn, bấm nút vào chuôi Đao xông vào đội quân thiết
giáp của giặc tấn công như vũ bão, hơi độc túa ra cùng khắp làm cho đội quân
thiết giáp của giặc choáng váng, Thục Di thét lớn tiến lên giết chúng cho ta.
Tức thời quân Văn Lang ào ào xông tới làm thịt đội quân thiết giáp của giặc.
Thình lình một tiếng quát to như sấm nổ làm người nghe như muốn thủng màn nhỉ,
lũ nhái con hỗn láo xem này. Man Công sè bàn tay ra tức thời hơi độc tuông ra
mù nịt vừa giải độc cho đội quân thiết giáp vừa công độc làm cho quân Văn Lang
xây xẩm mặt mày. Thục Di choáng váng liền thét lớn rút lui, hơn 500 quân trúng
độc ngã lăng ra chết, quân Ân rượt đuổi chém thôi là chém.
Nói về Man Công là tay vô cùng lợi hại, học trò lớn của Xà Rồng
Chúa Tinh, đã luyện được cực độc thành công đạt đến cảnh giới vô hình tối cao,
thừa lịnh của Xà Rồng Chúa Tinh đến giúp cho Triệu Công Tiển tiêu diệt quân Văn
Lang chia sẽ quyền lực thống trị. Thục Di làm sao chống đở nỗi cực độc thần
công, may tí nữa là mất mạng.
Nói về Thục Man thấy 5 nghìn quân cùng mình bị bao vây lớp lớp
liền giục ngựa thét lớn, đánh thẳng về hướng cổng thành, Thục Man đang ra sức
phá vòng vây thời thấy một vệt sáng bay tới cắn sau cổ một phát, Thục Man quờ
tay ra sau núm được nó lại cắn thêm một cái vào tay nữa, Thục Man tức giận đến
cùng cực, thì ra là mày liền đưa lên miệng cắn một cái với tất cả bình sanh
nghỉ là sẽ đứt đôi con rắn nhỏ xíu, nào hay đâu bị gãy mất mấy cái răng, con rắn
nhỏ không hề hấn gì cả vuột khỏi bàn tay bay mất, chất độc bộc phát làm Thục
Man choáng váng cả mặt mày.
Nói về Triệu Công Tiển, đứng ở ngoài chỉ huy trận đấu, thấy Thục
Man ở tình thế bị bao vây nguy cập đến nơi mà còn đủ bình tỉnh nhận định phương
hướng phá vòng vây nếu không giết sớm thì hỏng mất, thả cọp về rừng, liền thả
con Kim thiền sát hại, thường thường bị Kim thiền cắn phải thời ngã lăn ra đất
bất tỉnh, đằng này Thục Man vẫn trơ trơ còn túm bắt con Kim thiền đưa lên miệng
cắn một cái. Triệu Công Tiển trợn mắt kinh ngạc. Thục Man choáng váng như muốn
té nhào xuống ngựa, không thể bỏ lở cơ hội, Triệu Công Tiển phi ngựa vào trận
chém Thục Man một Đao hồn lìa khỏi xác. Quân Ân siết chặt vòng vây quân Văn
Lang chống trả không lại, 5 nghìn quân Văn Lang nháy con mắt tất cả đi đời,
quân Ân thắng trận vẻ vang nổi trống thu quân.
Thục Lao, Thục Di xây xẩm mặt mày trước cái chết của Thục Man, đi
tiêu hơn 1 vạn quân, cổng thành luôn luôn đóng kín, cố thủ vì chưa tìm ra giải
pháp xoay chuyển tình hình.
Nói về quân Ân thắng lớn mà vẩn án binh bất động, không khiêu
chiến chẳng thấy động tỉnh chi cả, không hiểu Triệu Công Tiển có âm mưu gì.
Triệu Công Tiển là tay chuyên dùng mưu thắng địch, hơn là dùng sức mạnh đối đầu
với địch.
Lúc này Triệu Công Tiển cần đội quân thám báo tài tình hơn là
khiêu chiến đánh với địch, Triệu Công Tiển tính tới nước cờ thành Kiến Giao sẽ
cho người bí mật cầu viện binh và sẽ cầu viện với Tam Giang Tây Châu, mạng lưới
thám báo được tung ra dày đặc, mai phục các ngã đường dẩn tới Tam Giang Tây
Châu.
Quả như dự đoán của Triệu Công Tiển, trong đêm dưới ánh sao mờ,
một bóng người lặng lẽ lao đi, nhanh như chớp quân Ân phóng thuốc mê tốm gọn,
thì ra đây là tên hầu cận của Thục Man, được nhận nhiệm vụ đưa mật thư đến Tam
Giang Tây Châu trao cho Tây Thục Vương với tình hình đang gặp khó khăn, quân
giặc quá mạnh, không thể đối địch được chỉ cố thủ thành mà thôi.
Thục Man tử nạn, thành Kiến Giao trong vòng vây phong tỏa của
giặc, tình thế bất lợi với những họa tiết các dấu ra ni. Triệu Công Tiển xem
xong là hiểu tất cả.
Câu chuyện là thế này. Nói về tên hầu cận thân tín nhất của Thục
Man, theo lối bí mật ra khỏi thành Kiến Giao Châu, trong đêm tối nhằm hướng
Đông Nam, dùng thuật kinh công lao đi, bổng có mùi lạ thời bất tỉnh nhân sự,
đến khi tỉnh dậy thời mơ mơ hồ hồ tưởng là mình đã gặp Tây Thục Vương. Bổng
Thục Vương hỏi, ngươi tên là gì? Nùng Phao nói Vương Gia quên con rồi sao, con
là Nùng Phao hầu cận Nhị Công Tử đây mà, Man Công nói ta nhớ ra rồi, Man Công
hỏi Đại Công Tử, Tam Công Tử là ai? Vương Gia làm sao thế Đại Công Tử là Thục
Lao tướng quân, Tam Công Tử là Thục Di tướng quân. Man Công hỏi trong thành
Kiến Giao Châu còn mấy vạn quân, Nùng Phao không nói, Man Công liền tăng yêu
thuật, Nùng Phao ú ớ một hồi rồi nói còn hơn 8 vạn quân. Triệu Công Tiển giật
cả mình, biết mục đích của mình đã đạt, để lại phong thư vào người Nùng Phao,
liền đem Nùng Phao để lại chổ cũ giải mê cho gã. Nùng Phao tỉnh mê dụi dụi hai
con mắt, hoảng hốt thò tay vào người thấy mật thơ vẩn còn nguyên thời an tâm,
nghỉ chuyện gì xảy ra thế này, dồm quanh dồm quất cảnh vật im phăng phắc chẳng
có gì khả nghi liền vội vả đứng lên nhắm hướng Đông Nam phi thân đi tiếp.
Nói về Tây Thục Vương đang nóng lòng chờ đợi thông tin từ thành
Kiến Giao Châu để phối hợp kế sách tiêu diệt địch, thời có quân vào báo, có mật
thư từ thành Kiến Giao Châu đến. Thục Vương cho mời vào. Nùng Phao nhìn thấy
Thục Vương liền khóc lóc thảm thiết, kể lể lại tất cả sự việc. Thục Vương nghe
xong nước mắt tuôn rơi đầm đìa, ông nghỉ Thục Chăm không rõ chết sống ra sao,
có lẽ đã chết rồi, nay lại thêm Thục Man nữa, lòng căm thù ngoại xâm lên đến
cực điểm. Nùng Phao lấy phong thư do Thục Lao viết dân lên cho Thục Vương, Thục
Vương xem xong liền nghĩ ra một kế sách táo bạo là đánh thẳng vào doanh trại
giặc tiêu diệt chúng, liền viết mật thư đưa cho Nùng Phao đem về đưa cho Thục
Lao, Thục Di phối hợp ăn khớp xóa sổ hơn 10 vạn quân Ân trả thù rửa hận cho
Đồng Bào con cháu Văn Lang. Nùng Phao vừa ra khỏi doanh trại Tam Giang Tây Châu
thời có một bóng người theo dõi, người đó là ai chúng ta sẽ theo dõi sau.
Nghỉ đến giặc Ân có nhiều tà thuật yêu thuật, làm hại Thục Man,
thời nhớ đến thanh Kim Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm, là vật chí linh, báo vật trấn
quốc, chỉ nghe nói không bao giờ được thấy, nói chi đến chuyện sờ cầm. Tây Thục
Vương nghỉ, Thất Linh Tiên Thiên Bảo Kiếm là do Vua Hùng Quốc Tổ kết hợp tinh
hoa của Trời Đất, ÂM DƯƠNG vũ trụ luyện bảy báu kết tinh, luyện tinh hóa khí,
luyện khí hóa thần, kết cấu thành linh vật. Dùng tâm linh phối hợp với linh vật,
luyện thành bảy thanh Kiếm. Công thức như sau.
Giai đoạn 1: Quốc Tổ lấy bảy cái là Vàng, Ngọc, Trân Châu, Kim
Cương, Pha Lê, Hổ Phách, Xà Cừ, dùng lửa tam muội, nấu chảy ra nước cho bảy
báu kết thành tinh.
Giai đoạn 2: Dùng lửa tam muội cực mạnh, nấu cho tinh bảy
báu trở lại thành nước rồi từ nước bốc thành hơi khí rồi từ khí chuyển sang
thần lực. Quốc Tổ dùng pháp thân tốm thâu Tiên Thiên, ÂM DƯƠNG Tinh Hoa vũ trụ
kết hợp với khí hóa bảy báu đang chuyển sang qua giai đoạn thần lực, kết tụ
thành linh vật.
Giai đoạn 3: Quốc Tổ dùng tâm linh ý chí Thần thức luyện
linh vật vũ trụ, tạo ra bảy thanh Tiên Thiên Bảo Kiếm linh quang vũ trụ, uy
lực vô cùng, theo ý niệm của con người mà biến hóa, tàn sát đối thủ hay bảo vệ
lấy mình, bảy thanh Tiên Thiên Bảo Kiếm không ai là hiểu hết công dụng của nó,
trừ khi là Quốc Tổ.
Nghe nói Tiên Thiên Bảo Kiếm tự nó biết thu hút Thần lực vũ trụ,
Tinh lực vũ trụ, Khí lực vũ trụ làm cho đất trời chuyển động theo, chỉ cần năm
bảo Kiếm, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ kết hợp với nhau, thời Thần, Thánh, Phật,
Tiên cũng khó thoát đại họa, huống chi là Yêu, Ma, Quỹ, Quái chỉ cần một quang
Kiếm cũng đi đời. Càng nghỉ Thục Vương càng tò mò thực hư ra làm sao, thuận tay
rút Kiếm ra khỏi vỏ, tức thời sấm sét nỗi lên ầm ầm hào quang chói loại làm ba
quân tướng sĩ hoảng kinh, Tây Thục cũng khiếp vía liền đút Kiếm vào vỏ tức thời
sấm sét hào quang liền biến mất. Tây Thục Vương vô cùng mừng rỡ nghỉ quả nhiên
lợi hại, lời truyền quả không sai đúng là vật chí bảo trấn Quốc, phen này giặc Ân
khó toàn mạng trở về.
Đây nói về A Lưới, theo lịnh của Thục Chăm mang thơ đến Tam Giang
Tây Châu đưa cho Tây Thục Vương. A Lưới phi ngựa gần tới Tam Giang Tây Châu,
bổng hào quang tua tủa sấm sét nỗi lên ầm ầm thời kinh hoảng không hiểu chuyện
gì đã xảy ra. Bổng có người quát đứng lại, A Lưới nhìn thấy người quát đó liền
cười nói ngươi không nhận ra ta sao. Người quát nhìn kỷ liền la lớn anh A Lưới
đây mà, liền cho người vào thông báo với Vương Gia, lúc sau có người ra mời A
Lưới vào.
A Lưới mới vừa bước vào, Thục Vương Gia liền hỏi? Thục Chăm ra sao
rồi? Bẩm Vương Gia, Chủ Soái vẩn mạnh khỏe, Thục Vương Gia nghe thế liền thở
phào nhẹ nhổm, A Lưới vội dân mật thư Thục Chăm gởi cho Vương Gia, trong thơ
tốm tắc kể rõ đầu đuôi sự vụ thất bại thành Tây Dương ra làm sao. Ông đọc tới
đâu quát tháo tới đó, đến đoạn cha con Hửu Tài đầu độc quan tướng chết thê chết
thảm, Thục Vương tức quá vổ mặt bàn cái rầm làm mặt bàn nát vụn.
Thục Vương hét lớn khốn kiếp thay cho cha con Hửu Tài, hưởng phước
lộc ông cha mà làm phản thờ quỹ thờ ma giặc thù, tội đáng phân thay xẻ thịt.
Ông lại nghe A Lưới kể 5 vạn quân chết thê chết thảm ông lại hét lớn đồ chó má
cha con Hửu Tài ông quát tháo đinh tai nhức óc.
Nói về Thục Liêu, Thục Châu nổi buồn kia chưa hết, nổi buồn nọ lại
kéo đến, Thục Man tử nạn, bổng nghe sấm sét nỗi lên thời kinh khiếp nhưng sau
đó nghe cha thử quang Kiếm mà ra, giờ lại nghe cha quát tháo ầm ĩ không hiểu là
chuyện gì liền chạy tới thời thấy A Lưới. Thục Liêu, Thục Chăm sửng sốt ngươi
còn sống sao? Làm sao ngươi thoát thân được? Thục Chăm đâu? Hỏi dồn hỏi dập làm
A Lưới lúng túng.
Thục Vương Gia đưa mật thư do Thục Chăm viết gởi đến cho Thục
Liêu, Thục Châu xem, khi ấy các quan tướng cũng đến đủ mặt, qua lá thư qua lời
kể của A Lưới, thời tất cả nghi vấn đã được giải đáp, thì ra là thế Thục Liêu
nói không ngờ Hửu Tài đã làm tới chức quan phủ, trấn giữ một vùng rộng lớn thế
mà lại sanh tâm làm phản.
Thục Vương nói, một con người chỉ biết ăn chơi trị lạc, lặng hụp
trong dục vọng tà tâm đánh mất lòng trung hiếu. Thấy giặc mạnh liền ngã theo
ngay, phản bội lại non sông Tổ Quốc làm hại anh em binh lính, những thứ ấy phải
nhổ tận gốc rễ nếu không nó sẽ mọc lên làm hại non sông Tổ Quốc.
Đây nói về Nùng Phao ra khỏi doanh trại Tam Giang Tây Châu thời
trời cũng vừa xẩm tối, cứ theo đường cũ phi thân lao đi dưới ánh sao mờ vì ban
ngày sợ quân Ân phát hiện, đi hơn hai phần đường, Nùng Phao yên trí tới đây
thời coi như đã an toàn, không còn lo lắng chi nữa cứ lao đi vùn vụt. Bổng nghe
mùi lạ liền lăn ra bất tỉnh, cùng lúc ấy hai bóng người xuất hiện đó là Triệu
Công Tiển cùng Man Công lão yêu, thì ra bóng người theo dõi Nùng Phao vừa mới
ra khỏi doanh trại Tam Giang Tây Châu chính là hai người nầy, Triệu Công Tiển
cùng Man Công lão yêu để cho Nùng Phao đi hơn hai phần đường mới ra tay hạ độc
thủ. Triệu Công Tiển lục soát trong mình Nùng Phao lấy ra một mật thư của Thục
Vương Gia gỡi cho hai anh em Thục Lao, Thục Di.
Nội dung thơ như sau. Tối mai cha đem quân bọc qua rừng Sầm Dương
tiến quân đánh thẳng vào phía Nam doanh trại của giặc, khi thấy pháo hiệu bắn
lên quân reo dậy đất thời con mở cổng thành dốc toàn lực đánh thẳng vào hướng
Đông Bắc doanh trại của giặc, quét sạch bọn chúng, chẳng để chúng sót một tên.
Triệu Công Tiển đọc xong mật thư liền nở nụ cười bí hiểm, sắc mặt
sát khí âm hiểm vô cùng, đưa mật thư cho Man Công coi, Man Công coi xong nói,
chúng ta hãy tương kế tựu kế tiêu diệt chúng. Triệu Công Tiển nói không những
thành Kiến Giao Châu mà ngay cả doanh trại hậu thuẩn quân lực, lương thực Tam
Giang Tây Châu cũng bị thiêu rụi, đốt sạch phương tiện tác chiến cùng nguồn dự
trữ, cung cấp cho ba cánh quân Tây Giang Châu, Tây Dương Châu, Kiến Giao Châu.
Đưa cha con Thục Vương vào con đường chết, nhổ bớt mớ gai mọc ra cản đường
chúng ta đi. Đã thu được thông tin quan trọng, liền giải thuốc mê cho Nùng
Phao, hai người chớp mắt đã biến dạng. Nùng Phao ngơ ngác sao ta lại thế nầy
mò vào mình mật thơ vẫn còn nguyên, xung quanh yên tỉnh như chẳng có gì xảy ra,
Nùng Phao lại tiếp tục phi thân lao đi đầu óc suy nghỉ mãi vẫn không hiểu đã
xảy ra chuyện gì.
**************
PHẦN 36
Đây nói về hai anh em nhà Tây Thục cùng ba cha con quan phủ Ngô
Thời Đại là Ngô Gia Đông, Ngô Gia Hải, Ngô Gia Luận, hồi hộp từng giờ từng
phút, chờ thông tin chỉ đạo từ Tam Giang Tây Châu. Sự chờ đợi đó rồi cũng đến,
Nùng Phao theo lối bí mật trở về, các quan tướng ai nấy cũng đều mừng rỡ, Nùng
Phao liền lấy mật thư của Thục Vương Gia gởi cho Thục Lao, Thục Di đọc xong mật
thư, Thục Lao nói chúng ta cứ y theo kế sách trong mật thư mà thi hành. Thục
Lao hỏi Nùng Phao trên đường đi ngươi có phát hiện gì lạ không? Có điểm nào khả
nghi không. Nùng Phao nghỉ đến hai chuyện lạ liền ấm ớ bẩm chủ tướng thuộc hạ
chẳng phát hiện được gì, từ lúc Nùng Phao đưa mật thư cho Thục Lao đến giờ, lúc
nào vẻ mặt như có điều suy nghỉ. Quan phủ Ngô Thời Đại là người tinh tế dày dặn
kinh nghiệm, nhìn thấy vẻ mặt khác lạ của Nùng Phao liền sinh nghi, nghe Thục
Lao hỏi, ông nhận thấy Nùng Phao trả lời có vẻ không được dứt khoát cho lắm,
hình như có gì đó nói ra không được.
Cho đến lúc thuộc hạ từ Tam Giang Tây Châu trở về hơn hai phần
đường, thời lại bị bất tỉnh thêm lần nữa, đến khi tỉnh dậy cũng y như lần
trước, cảnh vật không có gì khả nghi mật thư vẫn còn, ngoài hai nghi vấn trên
thời không còn chi tiết nào để kể nữa.
Thục Lao hỏi ngươi hầu giờ có chứng bịnh này không? Bẩm chủ tướng
dạ không, đây là lần đầu tiên thuộc hạ bị. Ngô Gia Luận tuy là người không hiểu
võ công nhưng học cao, hiểu rộng biết nhiều, nghe Nùng Phao kể như vậy liền
giật mình nói. Triệu Công Tiển quả là tay vô cùng lợi hại, may mắn thay không
thì chúng ta đã sa vào kế bẩy của chúng, đưa chúng ta vào con đường chết.
Nói tốm lại giặc đã đọc kỷ hai bức mật thư gởi đi lẩn gởi về, giặc
tương kế tựu kế nắm rõ đường đi nước bước của chúng ta, chúng giăng cái bẩy cho
chúng ta sa lưới, đánh chúng ta vào chỗ mà chúng ta không ngờ tới.
- Một là: Giặc sẽ đốt sạch nguồn lương thực dự trử tại doanh trại
Tam Giang Tây Châu, làm cho chúng ta khốn đốn ở hai mặt: một là lương thực,
hai là mất điểm trú quân hiểm yếu, rơi vào tình thế bị động, làm giao động
tinh thần hoang man tướng sỉ.
- Hai là: Giặc dồn ta vào thế bất ngờ giặc hiểu ta, còn ta không
hiểu giặc, cũng vì thế giặc lấy ít mà thắng nhiều lấy nhỏ để thắng lớn, giặc
luôn luôn chủ động giành lấy mọi ưu thế, đưa ta vào cạm bẩy. Chẳng hạn như
chúng phục kích đâu đó chờ quân trong thành kéo hết ra tấn công chúng, thời
chúng ùa vào chiếm lấy thành bằng cách:
Một: Chúng chửng bị đội quân leo tường
bằng thang dây, kinh công võ nghệ giỏi, đột nhập mở cổng thành, đại quân của
giặc ùa vô.
Hai: Quân ta vừa kéo ra, thời quân giặc ập
tới vì trời tối nên lầm tưởng quân ta, mở cổng thành thế là giặc Ân ùa vô như
nước lỡ.
Ba: Khi chúng ta dốc toàn lực lượng tiêu
diệt con hổ, nhưng đó chỉ là cái bóng con hổ, còn con hổ thật thời nuốt dần
những nơi trọng yếu của ta. Chẳng hạn như Tam Giang Tây Châu, như thành Kiến
Giao Châu đây chẳng hạn, không những chúng chiếm lấy nguồn lương thực dự trử mà
còn khống chế, cắt đứt mọi huyết mạch lưu thông, thế là Tây Bắc Văn Lang, Tây
Giao Chỉ lần lượt bị chúng khống chế.
Đã đạt được mục đích, giờ đây chúng cần theo dõi ta gắt gao hơn
nữa, theo dõi cho đến khi chúng đạt được mục đích. Vì thế chúng ta cần thay đổi
kế sách gấp thông báo cho Thục Vương. Để đánh lừa được chúng, lần này không cần
theo lối bí mật, đi bằng cổng chính, khi ra khỏi cổng thành thời phi ngựa về
hướng Bắc độ 6-7 dặm, thời phi ngựa về hướng Đông độ 27-28 dặm, thời phi ngựa
về hướng Nam, nhắm hướng Tam Giang Tây Châu phi tới, lúc trở về cũng theo lối
ấy mà đi. Và người thi hành mật vụ tối quan trọng mày phải là người có võ công
cao, cơ trí hơn người như Thục Di tướng quân chẳng hạn, đề phòng bất trắc xảy
ra. Không còn chần chờ gì thêm nữa, Thục Lao liền viết mật thư, kể rõ thông tin
đã bị bại lộ, chuyển sang mục tiêu hai. Mục tiêu một coi như hủy bỏ, theo
phương án hai, nương theo kế giặc, triệt phá giặc những chổ mà giặc không thể
ngờ đến. Tương kế tựu kế đưa giặc vào bẩy. Việc này quá gấp rút không được chậm
trể hoàng thành mật vụ trước khi trời sáng. Thục Di nhận nhiệm vụ ra khỏi cổng
thành, cỡi con Hắc Long Câu có sức chạy như bay nhắm hướng Bắc phi đi vùn vụt.
Hình như có người phát hiện bám sát theo sau hơn hai nghìn dặm thời không bám
theo nữa, có lẽ ngựa theo về hướng Bắc không đúng mục tiêu của sự theo dõi nên
kẻ ấy đã dừng lại, trở về vị trí cũ tiếp tục theo dõi, kẻ ấy là ai, không nói
chúng ta cũng hiểu đó là quân thám báo của giặc Ân, một tay có thuật kinh công
thượng đẳng. Bầu trời vẩn còn trong màn đêm u tối, bóng Hắc Long Câu từ hướng
Bắc phi vùn vụt về hướng Nam và cuối cùng cũng trở về thành Kiến Giao Châu,
cùng lúc một bóng người ẩn núp cách thành Kiến Giao không xa lẩm bẩm sao mai đã
mọc thôi ta về báo lại cho Chủ Soái, y lặng lẽ phi thân về hướng Tây mất dạng.
**************
PHẦN 37
Đây nói về nơi đồng hoang gò vắng, những cái xác trần truồng đã
sình lên bốc mùi hôi thối, không phải là xác của binh lính tử nạn mà là những
xác đàn bà phụ nữ. Đó là vợ lớn, vợ nhỏ, dâu lớn, dâu nhỏ của cha con Hửu Tài,
gieo cái mầm bất chính, để rồi gặt hái cái quả tàn bạo của quân xâm lược. Chúng
xài chán xài chê, rồi ném ra cho binh lính hảm hiếp cuối cùng là vứt xác nơi gò
vắng gò hoang cho kiến xơi quạ mổ.
Chu Công Minh nhìn thấy cảnh quan tướng thưởng thức món ngon, xài
gái đẹp vô cùng thích thú. Mơ tưởng đến ngày làm chủ nước Nam tha hồ mà hưởng
món ngon vật lạ, nhất là những nàng con gái hơi hới xuân xanh, như thành Tây
Dương Châu đây của ngon vật lạ, đồ cỗ, vàng bạc châu báu nhiều vô số kể.
Các quan tướng giặc Ân chiếm được thành Tây Dương như mèo gặp mâm
cổ, như chuột sa hủ nếp, một sức mà ăn mà xài mà vơ mà vét. Nhưng người được
nhiều nhất chính là Chủ Soái Chu Công Minh cả kho những chiếc hồm rương đựng
đầy ắp ngọc ngà châu báu, vàng ròng, bạc nén, trân châu, kim cương. Chúng vơ
vét thỏa thê, ăn uống no say canh gác có vẽ lơ đểnh, chúng nghỉ quân Văn Lang
thua thê thảm, thiệt mạng ước lượng hơn 7 vạn quân lấy đâu ra lực lượng nhanh
chóng đối đầu với chúng, khi chiến trường đang nổ ra đều khắp từ Tây cho đến
Đông.
Ánh bình minh ửng hồng ló dạng chiếu lấp lánh trên những vòm cây
ngọn cỏ khắp nẻo quê hương. Không biết từ bao giờ quân Văn Lang đã bao vây
thành Tây Dương Châu đông như kiến, gươm Đao giáo mác trùng trùng điệp điệp.
Binh lính giặc Ân như không tin ở đôi mắt mình cố lấy tay dụi dụi vào đôi mắt,
nhưng đây là sự thật. Quân reo dậy đất chiêng trống dậy Trời không hiểu quân
Văn Lang ở đâu mà chui ra nhanh thế.
Nói về Chu Công Minh từ khi nhìn thấy vàng bạc châu báu đến hoa cả
mắt, thời ngũ không được, mơ đến cảnh thống trị dân Nam sướng cả người. Chừng
nghe quân Văn Lang kéo đến chiêng trống nỗi dậy ầm ầm, thời kinh hoảng hỏi
chuyện gì thế? Chuyện gì thế?.
Bẩm Chủ Soái, quân Nam bao vây thành Tây Dương và sắp tấn công
chúng ta. Cái gì cái gì, Chu Công Minh với bộ dạng, quần đùi áo lót, đầu tóc
rối tung lao nhanh lên thành. Nhìn thấy quân Nam trùng trùng điệp điệp như sắp
tấn công vào thành, thời thét lớn tất cả vào vị trí chiến đấu. Binh lính có tên
ngơ ngác, không hiểu người ra lịnh đó là ai, có thằng chửi không hiểu thằng đầu
trộm đuôi cướp nào mà lớn lối như thế. Đến khi phát hiện ra Chủ Soái thời sợ
lưng cả mật, sợ thời sợ nhưng cũng phải bụm miệng cười, nếu không Chủ Soái phát
hiện được thời không còn cái đầu để mà ăn cơm.
Lấy lại bình tỉnh Chu Công Minh vội vả về phòng nai nịt gáp mảo
gọn gàng, gươm giáo chỉnh tề lên thành quan sát địch thủ, ước lượng hơn 7 vạn
quân, thời cười ha hả. Tưởng đâu là ghê gớm lắm, chẳng qua cũng là lũ ếch nhái
đông thêm mà thôi, vừa rồi ta chỉ cần một mẹo nhỏ cũng đủ đưa chúng vào cõi
chết hơn 7 nghìn quân. Không hiểu đây là cánh quân nào mà tới nhanh như thế. Hồ
Thế Gia nói, bẩm Chủ Soái chúng ta cần viện binh thêm 5 vạn quân chờ cho chúng
công thành mệt mỏi, trong đánh ra ngoài đánh vô mà làm thịt chúng, hơn nữa
chúng ta chiếm được thành Tây Dương Châu cũng đã mất hơn 3 vạn. Chu Công Minh
nghe cũng phải liền viết mật thư chờ trời tối cho người đến huyện Phù Thát dân
lên cho Ngạc Sùng Cảnh.
Quân Văn Lang không những phong tỏa cung thành mà còn phong tỏa cả
thông tin liên lạc của chúng, càng lúc càng siết chặt vòng vây.
Chu Công Minh họp các tướng lại nói. Thành Tây Dương Châu tuy
thấp, lại không được kiên cố, nhưng nhờ quân ta đã rèn luyện nhiều năm công
thành giữ thành, tạm thời quân địch chẳng làm gì ta được. Xét về một thắng
một thua ta có năm cái lợi.
1: Là lương thực dồi dào dùng cho nữa năm cũng chưa hết.
2: Là ta có thành trì một chọi ba vẫn còn thừa sức.
3: Tướng lỉnh đủ tài để đối phó.
4: Là ta vẫn còn 9 vạn quân.
5: Là về mặt hậu thuẩn quân ta còn rất mạnh.
Nếu địch hơn ta gấp 5 lần, thời ta cố thủ thành chờ quân tiếp viện
hoặc tùy cơ ứng biến.
Nói về Thục Mân, Thục Cương làm theo kế sách chỉ đạo của Diệp
Lang, dẩn 4 vạn quân tới huyện Hà Giang, rừng Hà Lâm kết hợp với quân Mường
Thái, quân Lô Gô, quân Văn Quang tổng cọng hơn 7 vạn quân, tức tốc trong đêm
đến bao vây thành Tây Dương Châu, đến khi gần sáng thời đánh trống, dộng chiêng
ầm ĩ uy hiếp tinh thần quân giặc. Chờ đợi lịnh tiếp theo của Diệp Lang, Thục
Mân đang thúc quân vây chặt phong tỏa thành Tây Dương Châu mỗi lúc một thêm
kiên cố. Thời có người đem mật thơ đến, người ấy không ai khác hơn là Thục Chăm
mà ai cũng nghỉ là mất mạng trong thành Tây Dương Châu rồi. Thục Mân vừa thấy
Thục Chăm tưởng mình hoa mắt, nhưng sau đó thời mừng rở reo lên, anh Thục Chăm
đây mà, em cứ tưởng là anh đã chết, Thục Mân, Thục Cương, Thục Chăm ba anh em
rơi nước mắt.
Thục Chăm kể lại đầu đuôi sự việc thất thủ thành Tây Dương Châu
cho các quan tướng cùng nghe, ai nấy cũng căm hận cha con Hửu Tài, vì tình hình
khẩn cấp không cho phép nói chuyện tư riêng thêm nữa. Thục Chăm liền lấy bức
mật thư do Diệp Lang gởi cho Thục Mân, nội dung mật thơ như sau.
Quân giặc thấy ta bao vây thành Tây Dương Châu, quân số không đông
hơn chúng vì thế chúng sẽ thực hiện âm mưu táo bạo tiêu diệt chúng ta, vì thế
chúng sẽ cho người về doanh trại tổng tư lịnh đóng tại Phù Thát cầu viện binh
lên Ngạc Sùng Cảnh, âm thầm dẩn quân phục kích cách thành Tây Dương Châu không
xa. Chúng chờ cho quân ta công thành mệt mõi, bất ngờ kéo đến tấn công, kết hợp
trong đánh ra ngoài đánh vô, kẹp quân ta vào giữa để tiêu diệt vì thế chúng ta
cần nới vành đai kiểm soát để cho chúng thực hiện âm mưu, theo dõi phát hiện
nhưng không biết. Ta dùng phương pháp khiêu chiến, khích tướng gây sự làm cho
đối phương phải ra đánh tiêu diệt lần chúng. Thục Mân tướng quân trao kiếm lịnh
lại cho Thục Chăm tướng quân, tất cả theo lịnh Thục Chăm tướng quân. Nhận Kiếm
lịnh xong Thục Chăm nói, Chu Công Minh không có gì đáng ngại nhưng Hồ Thế Gia
lại khác, là con cáo già lắm mưu nhiều kế tùy theo tình hình diển biến mà kế
sách cũng được thay đổi. Nếu giặc thực hiện đúng kế sách âm mưu của giặc thời
trong thành đánh ra, ngoài thành đánh vô kẹp quân ta vào giữa mà tiêu diệt,
quân trong thành không bao giờ xuất hết ra mà chỉ xuất hơn nữa quân là cùng. Có
thể 5 vạn quân xuất trận, 4 vạn quân thủ thành, khi nào chúng để cho chúng ta
chiếm lấy, công và thủ của chúng đều kín mít. Vì thế chúng ta chỉ làm theo sự
chỉ đạo của Đức Tôn Vương mà làm. Thục Chăm nói giặc cứ nghỉ chúng ta kéo đến
là để công phá thành tiêu diệt chúng bảo vệ yếu huyệt Tây Bắc Văn Lang, dù phải
hi sinh bao nhiêu chúng ta vẩn cứ làm. Vì thế chúng sẽ giăng bẩy tiêu diệt
chúng ta, khi chúng ta đi đúng con đường chúng nghỉ. Trong binh pháp việc công
thành là hạ sách tốn kém rất nhiều, hao binh tổn tướng, giặc một ta ba cũng
khó mà thắng chúng, huống chi quân ta ít khi tập công thành thời thiệt hại càng
lớn lao hơn nữa. Vì vậy tiêu diệt địch chỉ còn cách là khiêu chiến với chúng,
một kế sách mà chúng ít nghỉ tới. Thục Chăm hỏi có tướng nào ra trận đầu không?
Có một tướng nhanh chóng đứng dậy nói. Bẩm Chủ Soái thuộc hạ xin đánh trận
đầu. Thục Chăm dặn không thắng mà giã thua. Tuân lịnh. Vị ấy không ai khác hơn
là Lô Gô tướng quân, Lô Gô tướng quân dẩn 3 nghìn binh áp sát cổng thành khiêu
chiến chửi rủa ầm ĩ.
Chu Công Minh nhờ Hửu Tài làm phản mới chiếm được thành chớ tài
cán chi, Chu Công Minh chỉ là phường chuột rúc luôn lẩn trốn trong hang là con
heo ngu đần, con bò đần độn, nhờ may mắn chứ tài cán chi. Ra gặp ông thời coi
như về chầu âm phủ, có giỏi thì ra đây đấu với ta mới rõ mặt anh hùng hảo hán,
đồ loài hèn nhác, loài hèn nhác.
Nói về Chu Công Minh, thấy quân Văn Lang không tấn công thành mà
chuyển sang khiêu chiến thời thấy làm lạ nghỉ, quân Nam có mưu đồ gì chăng? Hồ
tướng quân nghỉ xem có gì ẩn kế bên trong. Hồ Thế Gia nói không có chi là lạ cả
vì chúng hiểu ta có hơn 9 vạn quân thủ thành dù cho chúng có 20 vạn quân cũng
không làm chi nỗi, huống hồ chi quân Văn Lang ước lượng trên dưới 7 vạn quân là
cùng. Thời chọn con đường khiêu chiến là giải pháp thích hợp nhất, có lẽ chúng
xem thường nhân tài của ta, không có người đối địch lại chúng, khiêu chiến là
giải pháp tốt nhất chúng cho là tiêu diệt được chúng ta. Lâm Phát Nhì nỗi nóng
quát tháo mẹ kiếp đồ chó má mà vuốt râu hùm, sao ta không xông ra tiêu diệt
sạch chúng đi cho rồi, cần chi phải đợi đến khiêu chiến hay viện binh. Quân Văn
Lang chửi rủa mỗi lúc một khó chịu. Lâm Phát Nhì chịu hết nỗi xin ra trận, bẩm
Chủ Soái đường nào chúng ta cũng tiêu diệt chúng, để thuộc hạ ra giết chúng cho
rồi. Chu Công Minh cũng nghỉ như vậy liền để cho Lâm Phát Nhì ra trận.
Lâm Phát Nhất, Lâm Phát Nhì là người thô lỗ nóng nảy, Lâm Phát Nhì
được lịnh mở cổng thành dẩn 3 nghìn quân, đầu đội Kim Khôi, mình mang giáp sắt,
cỡi con ngựa Hoàng Long cao to vàng sậm, tay cầm đại Đao nặng tới 60 cân, vẻ
mặt hầm hầm như muốn ăn tươi nuốt sống địch thủ. Vừa chạm mặt Lâm Phát Nhì. Lô
Gô nói có thế chứ, có đâu như con rùa rụt cổ.
Thơ rằng:
Lũ giặc các ngươi chớ hung hăng
Gặp ta đầu rụng, chết ngã lăng
Ta đã hỏi rồi, Đao ta nói
Thèm thịt giặc Ân, nuốt vạn thằng
Này tên xâm lược, mau quỳ xuống
Ta cho còn xác, chết có ăn
Bằng không ta chém, làm muôn mảnh
Hồn người chết khiếp, ngục hằng hằng
Lâm Phát Nhì tức muốn trào máu họng thét lớn giục ngựa xông lên
chém nhầu Lô Gô. Lô Gô nào chịu kém múa Đao chống trả, binh khí chạm nhau đinh
tai nhức óc, Đao gào Đao thét nghe mà nổi da gà rởn da ốc, người ngựa đảo lộn
xoay tròn như chong chóng, chớp mắt đã có hơn 50 hiệp. Lô Gô giã bại thua chạy,
Lâm Phát Nhì sợ sổng mất con mồi béo bở rượt đuổi tới tấp, không ngờ Lô Gô
thình lình đảo ngược trường Đao nhanh như tia chớp chém đối thủ một Đao sấm
sét, tướng giặc đở không kịp liền trúng một Đao chết tốt. Quân Nam thắng thế
xông lên như cọp xơi dê, tha hồ mà đâm mà chém. Lâm Phát Nhất đưa 3 nghìn quân
tiếp ứng mà không được vì Văn Quang tướng quân đưa quân ngăn cản chận đầu, thấy
Lâm Phát Nhì tử nạn, Lâm Phát Nhất như con thú cuồng điên lao ngựa xông vào
chém Văn Quang xối xả, thế là hai con hổ vồ nhau chí tử. Quân Văn Lang dũng
mãnh như đàng sư tử quật ngã đàng dê, quân Ân bật ngữa ngã đổ chổng kềnh, quân
Nam thắng thế xông lên đạp càn, chém thôi là chém, Đao Kiếm xối xả trút xuống
như mưa. Chu Công Minh tức quá dẩn binh hùng tướng mạnh ra nghinh chiến, Văn
Quang thấy quân Ân túa ra đông như kiến, thời có ý rút lui liền dồn sức vào
cánh tay đánh liền mấy thương như sấm sét Lâm Phát Nhất xính xáng Văn Quang bồi
thêm một kiếm nữa, quày ngựa chạy dài miệng hô rút, Lâm Phát Nhất không dám
rượt theo sợ mắc mưu kẻ địch liền thu quân trở lại. Thục Chăm thấy Chu Công
Minh điều binh khiển tướng ra trận, nào chịu kém đối thủ liền điều binh khiển
tướng đối mặt với quân thù.
Chu Công Minh hỏi các tướng có biết tướng cầm đầu của quân Nam là
ai không? Ôn Gia Hầu nói cần gì biết chúng là ai cứ đưa chúng về âm phủ, cần gì
biết đến tên họ cho mệt. Thục Chăm nhìn thấy bộ sọ đầu não quân thù, nghỉ đến 7
vạn quân vùi chôn dưới bàn tay của chúng, thời lòng căm thù sôi lên sùng sục,
hỏi có tướng nào ra trận không? Mường Thái tướng quân nói, bẩm chủ tướng để tôi
ra trận khiêu chiến với chúng. Thục Chăm nói tướng quân hết sức cẩn thận. Tuận
lịnh.
Mường Thái tướng quân liền dẩn 3 nghìn quân ra trận đối mặt với
quân thù hét lớn, lũ chó săn giặc Ân mau ra đây lạy ông cố tổ lũ mày may ra ta
còn để cho cái mạng toàn thây, bằng không ta băm lũ ngươi như băm thịt cá. Bởi
lời nói xốc xược hổn láo vô lễ kêu căng ngạo mạn, Ôn Gia Hầu tức quá chịu không
nỗi liền nói, bẩm Chủ Soái để thằng nhãi này cho tôi, chiến này tôi phải lấy
đầu cho bằng được cái thằng hổn láo nầy. Làm giảm bớt nhuệ khí phách lối hung
hăng của chúng, chúng biết thế nào là lợi hại của quân ta.
Ôn Gia Hầu cỡi con ngựa Xích Long Câu cao to. Chỉ cần nghe tiếng
hí của nó cũng đủ làm khiếp đảm mọi người. Ôn Gia Hầu đầu đội kim khôi, mình
mang giáp đồng, tay cầm đại đao to lớn nặng hơn 80 cân. Có sức mạnh kinh người
ít người địch nổi, dẩn 3 nghìn quân phi ngựa rồm rộp hùng hùng hổ hổ tiến ra.
Chỉ tướng quân Mường Thái, thét như sấm nổ. Nay là ngày giỗ của ngươi xem đây,
tức thời người ngựa lao tới chém một đao, với chiêu Đại Bàng xé mây bắt Hổ
cuồng phong nổi dậy ù ù, cát bay đá chạy cây cối ngã nghiêng. Mường Thái tướng
quân biết mình đở không nổi bình tỉnh né qua một bên.
Ôn Gia Hầu chém hụt tức giận thét lớn chết nầy, tức thời một chiêu
ác đao nữa được tung ra, với chiêu Xuyên Sơn Phá Thạch, Đao Pháp gầm thét đến
kinh người, Mường Thái tướng quân chỉ còn chờ chết. Bổng có tiếng quát như sấm
nổi lên. Xem đao của ta đây, ầm ầm đinh tai nhứt óc. Thục Cương dội ngược, còn
Ôn Gia Hầu ê cả tay.
Nói về Thục Cương nhìn thấy Ôn Gia Hầu Thần dũng như vậy, biết
Mường Thái tướng quân không phải là đối thủ, e sợ chết ngay chiêu đầu vừa rồi,
liền phi ngựa ra tiếp ứng. Không ngờ đường đao của Ôn Gia Hầu uy lực khũng
khiếp hất Thục Cương cả người lẩn ngựa dội ngược ra sau ba bốn bước. Thục Cương
kinh hoảng, Ôn Gia Hầu tức quá gầm thét đến rợn người, ta chấp cả hai. Thục
Cương nghỉ không thi tiển tuyệt chiêu tấc cả bình sanh, thời khó mà hạ gục được
đối phương liền vận công tối đa thi tiển bốn chiêu tuyệt kỷ Vân - Lôi - Phong -
Vũ. Thục Cương thét lớn nạp mạng đây, ánh đao tuôn ra thành luồng như những đám
mây phủ xuống đầu Ôn Gia Hầu.
Ôn Gia Hầu kinh hoảng không ngờ tướng Nam lại tài đến thế, Ôn Gia
Hầu vận hết 12 thần công lực đở đòn với chiêu Thiên Ảnh Đao, tức thời Đao pháp
trùng trùng điệp điệp tuôn ra như dòng thát lớn chận đứng chiêu Vân Đao cùng
chiêu ngũ Long đoạt mệnh tức thời tiếng đùng đùng ầm ầm nỗi lên không ngớt,
không để cho Ôn Gia Hầu có dịp phản công, chiêu sấm lôi chơm chớp phủ xuống,
chiêu cầm Long sát thủ tiếp tục tung ra, Ôn Gia Hầu tức điên người bay lên
không với chiêu Lăng Không bộ pháp vô cùng đẹp mắt, từ trên không lao xuống với
chiêu Đại Bàng bắt Rắn đường Đao chém xuống mạnh như di sơn đảo hải cọng thêm
ngũ Long đoạt mệnh trảo. Thục Cương thi tiển chiêu phong vũ chống trả ầm ầm cả
người lẩn ngựa muốn ngã quỵ, chiêu ngũ Long đoạt mệnh trảo xé gió ầm ầm trút
xuống đầu Mường Thái tướng quân, Mường Thái tướng quân tránh không kịp trúng
liền ba trảo toi mạng hồn lìa khỏi xác bay về trời.
Mường Thái tướng quân chết hùng anh
Chết vì Non Nước, chết hồi sanh
Về chầu Tiên Tổ, hồn hiển Thánh
Hi sinh Đại Nghĩa, đẹp càng xanh
Theo bước Cha Ông, nền Chánh Giáo
Con đường truyền thống, sáng long lanh
Con cháu Tiên Rồng, mang chí lớn
Vì danh vì nước, chí thiên thanh.
Hạ thủ xong Mường Thái tướng quân, Ôn Gia Hầu phấn chấn hò hét
đinh tai nhức óc trở nên dũng mãnh phi thường, múa Đao vùn vụt kình lực tuôn ra
ù ù đá chạy cát bay, ánh Đao chơm chớp chém tới ầm ầm ai nhìn thấy phải khiếp
hồn khiếp vía. Lo sợ cho Thục Cương, Thục Cương tuy sức yếu hơn, nhưng vì võ
nghệ cao cường khôn ngoan nhanh nhẹn vô cùng, Thanh Lao Đao như con Rồng vùng
vẩy giữa không trung, nương theo sức mạnh của địch để hạ địch.
Đúng là:
Long Hổ vồ nhau, dậy đùng đùng
Ầm ầm trận địa, đất trời rung
Ngựa người vùn vụt, Đao chơm chớp
Gió bụi tung bay, phủ mịt mùng
Dồn dập liên miên, rền Đao pháp
Heo hút trời mây, gió bão tuôn
Đường tơ kẻ tóc, con đường chết
Dư âm cuồn cuộn dội chiến trường.
50 hiệp trôi qua mà chưa hạ gục được Thục Cương, Ôn Gia Hầu tức
quá hét lớn chết nầy tức thời chiêu Quỷ Ảnh Ma Đao chém tới Thục Cương, đường
Đao như ma quỷ biến ảo khôn lường, Thục Cương khó mà chống đỡ nỗi, mạng sống
nguy cập tới nơi. Bổng thấy hào quang chóa mắt kèm theo tiếng quát lanh lảnh
vang động cả chiến trường. Hảy xem bảo bối của ta đây, Ôn Gia Hầu bị hào quang
làm lóa cả mắt, nhìn lên thấy một thanh niên khổng lồ, đang thu hút nội lực Vũ
Trụ chém xuống, không còn con đường nào khác hơn là chuyển chiêu Quỷ Ảnh Ma Đao
lên chống đở ầm ầm long trời lở đất, Ôn Gia Hầu cả người lẩn ngựa như muốn quỵ
xuống đứng dậy hết nỗi, Thái Nga thâu Kiếm lên không chém xuống một chiêu nữa.
Thục Cương nào bỏ lở cơ hội thi tiển ngay chiêu Đoạt Mệnh Đao lấy mạng Ôn Gia
Hầu. Nói về Ôn Gia Hầu bị kiếm Tiên bảo bối chém xuống một nhát sít toi mạng,
sức lực giảm bớt bảy phần mười khiếp hãi vô cùng. Thấy ánh Đao như sấm sét
chớp đến biết là nguy hiểm tới nơi nhưng cũng ráng sức chống đở ầm ầm, Ôn Gia
Hầu ngã quỵ xuống ngựa, Thục Cương nhanh như tia chớp vớt thêm một Đao nữa, Ôn
Gia Hầu đầu lìa khỏi cổ bay đi lông lốc.
Chu Công Minh nhìn thấy cảnh ấy kinh hồn bạc vía, chưa biết phải
làm sao. Quân Nam thắng thế hò hét xông lên đâm chém quân Ân xối xả, chết la
chết liệt nằm phơi như rạ, Chu Công Minh khiếp quá hỏi Nữ tướng kia là ai thế,
học ở đâu mà có pháp thuật lợi hại như vậy? Nhưng nào có ai biết vì tất cả đều
mù tịt, Chu Công Minh thấy khó mà hạ gục được quân Nam, định thu quân vào thành
chuyển sang chiến thuật khác.
Bổng nghe tiếng quát như sấm, Chu Công Minh âm phủ đòi hồn, ngươi
khó sống đến ngày mai, Thục Chăm quát lớn ngươi chỉ là con rùa rụt cổ, chỉ là
loài rắn nước tài cán chi, ngươi chỉ nhờ cha con Hửu Tài làm nội phản nên mới
thắng được ta. Chu Công Minh kinh ngạc hỏi ngươi là ai? Ngươi bình tỉnh nghe ta
xưng tên đây nếu không ngươi sẽ vở mật mà chết. Chu Công Minh quát quân hổn
láo, ngươi có xưng tên xem ta có sao không. Thục Chăm nói ta là Thục Chăm từ
địa phủ trở về lấy mạng ngươi, Chu Công Minh nghe Thục Chăm xưng tên sít chút
nữa thời té ngửa, lấy lại bình tỉnh nói té ra là ngươi, ta để sẩy mất con hổ về
rừng. Thục Chăm nói ngươi chỉ là con chó của nhà Ân mà hại được ta sao, Chu
Công Minh quát tháo ngươi là cái thá gì mà ta giết ngươi không được, dù cho đó
là Vua Hùng ta vẫn coi như cỏ rác, có cơ hội là ta chém ra thành trăm mảnh.
Thục Chăm nghe Chu Công Minh hổn xược xúc phạm đến Vua Hùng liền phi ngựa đến
chỉ mặt hét lớn, loài sâu bọ ra đây đấu với ta. Chu Công Minh tức giận không
kém sát khí ngùn ngụt định giục ngựa xông ra giết quách địch thủ cho hả cơn
giận. Bổng có người nói, giết gà cần gì phải dùng đến Đao, để thuộc hạ ra làm
thịt thằng nhãi đó cho rồi, người nói đó không ai khác hơn chính là Hồ Thế Gia,
một con cáo già đầy mưu mẹo võ công cao cường xưa nay ít người địch lại.
Chu Công Minh dặn, Hồ tướng quân ra trận phải để tâm đề phòng đến
con quỷ cái hung dữ kia lão chỉ Thái Nga, Hồ Thế Gia nói thứ ma thuật trẻ con
ấy làm gì được thuộc hạ, nói xong liền điểm 5 nghìn quân ra trận. Thục Chăm
nhìn thấy tướng giặc ra trận không phải là Chu Công Minh, nhìn vẻ tự tin vai
mang nhiều thứ vũ khí thời cũng đoán được là tay vô cùng lợi hại, liền kêu Thục
Cương, Thái Nga đến nói, hai anh em tìm cách trừ khử thằng giặc đó cho rồi.
Tuân lịnh.
Thục Chăm dặn xong liền điểm quân ra trận, thời có người lên
tiếng, anh Tư để thằng giặc đó cho em, người nói ấy không ai khác hơn là Thục
Mân. Thục Chăm nói chú Bảy cẩn thận, tướng giặc này có nhiều điểm bí ẩn cần phải
đề phòng cảnh giác cao. Thục Mân oai phong lẩm lẩm dẩn 5 nghìn quân ra trận
chiêng trống dậy trời, Hồ Thế Gia nhìn thấy quân Nam hùng hùng hổ hổ ra trận tử
chiến không đầu hàng, cụ thể là chiến trận thành Tây Dương đã qua không khỏi
nỗi da gà.
Nước Văn Lang quả là nơi Thánh Địa ung đúc lên anh hùng mọc lên
như tre như trúc không phải nước nào cũng có. Không phải vì thế mà Hồ Thế Gia
khiếp sợ mà có dã tâm lớn muốn nuốt nước Văn Lang, tiêu diệt khí thiên sông núi
Hồn Thiên dân tộc hầu cùng ÂN THỌ VƯƠNG làm chủ Địa Long Vũ Trụ. Hồ Thế Gia là
tay cáo già học nhiều hiểu rộng, nỗi tiếng đất Bắc là tay khó chơi, thấy Thục
Mân ra trận, Hồ Thế Gia có vẽ xem thường nói, thấy Tướng Gia sao không chịu
xuống ngựa quy hàn thời may ra còn mạng sống để mà phục dịch nô lệ. Thục Mân
nghe lời nói xấc xược của Hồ Thế Gia tức quá thét lớn, đạo tặc loài ăn cướp xâm
lược lũ các ngươi, đã dẩm chân lên đất Văn Lang thời không còn thân xác để mà
trở về, hồn ma lũ các ngươi muôn đời vạn kiếp làm ma nô lệ cho dân ta, ác tặc
nạp mạng đây, Thục Mân giục ngựa xông tới, trường thương vun vút tấn công Hồ
Thế Gia với những thế võ kinh người. Hồ Thế Gia cười nhạt, với loại binh khí
quái dị vừa thương vừa Đao vừa xà nâu bí hiểm lợi hại vô cùng, nhanh như tia
chớp Hồ Thế Gia tung ra nhiều chiêu thức hết sức quái dị vừa đón đở chống trả
tấn công, giật lấy binh khí đối thủ, làm Thục Mân xích xáng, sít chút nữa bị
đối thủ giật mất vũ khí.
Kinh hãi Thục Mân biết gặp tay đối thủ khó chơi, tập trung tinh
thần cao độ, thi tiển tuyệt chiêu chống trả, hai bên giao đấu quần nhau như
chong chóng, phi tới phi lui vùn vụt, 50 hiệp trôi qua bất phân thắng bại. Thục
Mân bổng phát hiện ra có mùi lạ liền xây xẩm mặt mày, Hồ Thế Gia nào bỏ lỡ cơ
hội, liền xử dụng tiệt chiêu U Linh Quỷ Chiêu, một chiêu pháp vô cùng lợi hại
lấy mạng Thục Mân. Bổng nghe tiếng thét lớn, tướng công lùi mau nhanh như tia
chớp Thục Mân lao ra khỏi vòng chiến thoát chết trong đường tơ kẻ tóc ầm ầm, Hồ
Thế Gia ngựa người dội ngược, còn người kia không những dội ngược còn thêm
liểng xiểng cố gượng lại. Hồ Thế Gia kinh ngạc lại là một nữ tướng xinh đẹp,
không những đở nỗi U Linh Quỷ Chiêu, không bị mê hồn độc hương làm hại, thì ra
người đở nỗi U Linh Quỷ Chiêu cứu Thục Mân thoát chết, không ai xa lạ chính là
Xê Đang vợ của Thục Mân. Xê Đang luôn luôn theo sát trận chiến giữa chồng mình
cùng tướng giặc, thấy chồng mình xích xáng thời biết có vấn đề liền giục ngựa
lao nhanh vào trận chiến đón đở chiêu U Minh Quỷ Chiêu cứu thoát mạng chồng, Xê
Đang kinh khiếp trước sức mạnh chiêu pháp lợi hại của tướng giặc gượng đứng lại
thét lớn. Mê hồn độc hương làm gì được ta, liền giục ngựa xông vào tấn công tới
tấp vào địch thủ, Hồ Thế Gia tức giận đùng đùng lập kế giết hại Xê Đang. Đánh
được vài hiệp lão già đó yếu sức thua bỏ chạy, Xê Đang rượt đuổi theo liền
trúng kế của lão. Bất thình lình Hồ Thế Gia xoay ngựa như chong chóng, quật
ngược một chiêu hết sức bất ngờ lấy mạng Xê Đang ai nấy cũng điều kinh khiếp,
nhưng kỳ diệu thay Xê Đang đã tránh thoát, Hồ Thế Gia chém hụt, lão gầm thét
inh ỏi nào để con mồi trốn thoát, lão liền ném một vật lên không hô biến, tức
thời hiện ra một con chim ưng to lớn, nhắm đầu Xê Đang mổ xuống, gió dậy ù ù.
Sanh mạng Xê Đang đang lúc ngàn cân treo sợi tóc, cùng lúc ấy một Đạo hào
quang bay đến chém xuống chim ưng chỉ nghe ầm ầm long trời lở đất, chim ưng bị
bảo bối Kiếm Tiên chém đứt làm hai khúc, hiện thành cái móng chim đứt làm đôi
rơi xuống đất.
Hồ Thế Gia thất kinh, mất bảo vật vừa sợ vừa tiếc, nhưng làm gì
được khi Kiếm Quang đang chuyển động ù ù chém xuống quân Ân. Hồ Thế Gia thét
lớn rút, tức thời quân Ân như bị ma đuổi, quỷ rược chạy thục mạng. Quân Văn
Lang thắng thế tướng sỉ xông lên đánh cho quân Ân một trận tơi bời. Hồ Thế Gia
khiếp đảm đi tiêu hơn vạn quân mất tiêu ba tướng liền kéo quân vào thành cố thủ,
chờ quân tiếp viện tới.
Thục Chăm nghỉ, quân Ân đã khiếp sợ sẽ không bao giờ ra giao chiến
nữa, chỉ cố giữ thành mà thôi, việc công phá thành là việc làm không dễ khi
giặc Ân còn gần 8 vạn quân, giặc phòng thủ chặt chẽ, không thể nói đánh là đánh
được, cần phải có thời gian trù tính kế hoạch, phương tiện dụng cụ tấn công,
còn có cả chiến thuật tấn công phá thành nữa, quân Ân có mộng xâm lược từ lâu,
nên đã chuẩn bị phương tiện dụng cụ công phá thành hữu hiệu, tướng sĩ luyện tập
công phá thành thường xuyên. Nay lại cố thủ thành thời vững chắc, chặt chẽ vô
cùng, nếu thừa thắng xông lên công phá thành, nhất định sẽ bị tổn thất nặng nề,
dù cho phá được thành tiêu diệt quân địch cũng phải trả giá quá đắc, thiệt hại
về mình là rất lớn, việc tấn công thành trì bao giờ cũng coi là hạ sách trong
chiến tranh. Chỉ trường hợp chiếm lấy thành trì là điều cần thiết lớn như chiếm
lấy trung đầu não hoặc khống chế các trục lộ giao thông phong tỏa cắt đứt mọi
huyết mạch liên kết của địch, thời tốn kém mất mát bao nhiêu cũng phải làm nếu
đó là tình thế buộc phải chiếm cho kỳ được, với kế sách không đánh thì vây,
Thục Chăm ra lịnh bao vây thành Tây Dương Châu mỗi lúc một nghiêm ngặt. Chu
Công Minh cùng các tướng giặc Ân đứng trên thành, thấy quân Văn Lang tiếp tục
bao vây mỗi lúc một nghiêm ngặt hơn thời trong lòng thầm kinh hãi, chỉ còn cách
là chờ quân viện binh đến.
**************
PHẦN 38
Đây nói về Tây Thục Vương đọc xong mật thơ của Thục Lao gởi cho
vừa ngậm ngùi rơi lệ, vừa căm hận cha con Hửu Tài vừa căm thù quân xâm lược,
không những chúng cướp bóc tàn sát muôn dân thê thảm, nghỉ đến cái chết của
Thục Man do Triệu Công Tiển sát hại bêu đầu nơi chiến trường, thời nộ khí xung
thiên thét lớn, lũ ngoại xâm khốn kiếp chúng bây sẽ đền tội cho muôn dân.
Tây Thục Vương liền đưa ra kế sách táo bạo là kết hợp với quân
Kiến Giao cùng lúc tiến quân bao vây đánh thẳng vào doanh trại của giặc một mất
một còn với chúng. Tam Giang Tây Châu lúc này lên tới 5 vạn quân, Tây Thục
Vương định dốc toàn lực lượng chỉ để lại một ít quân phòng thủ Tam Giang Tây
Châu mà thôi, còn bao nhiêu là dồn vào trận đánh sanh tử cùng Triệu Công Tiển.
Theo kế sách là tối mai thống lảnh 3 vạn quân tướng sỉ, bọc theo rừng Sầm Dương
tiến quân đánh thẳng về phía Đông Nam doanh trại của giặc, còn Thục Lao, Thục Di
dốc toàn lực lượng ở thành Kiến Giao đánh thẳng vào hướng Đông Bắc doanh trại
của giặc, liền viết mật thơ giao cho Nùng Phao.
Nùng Phao vừa đi khỏi Tam Giang Tây Châu, Tây Thục Vương liền đi
vào cuộc họp khẩn cấp, bàn thảo kế hoạch, phân công lực lượng tiêu diệt tận ổ
kẻ địch dù biết rằng quân ta, quân địch không chênh lệch mấy. Cuộc họp đã đi
đến giai đoạn kết thúc, thời có quân vào báo. Có Thục Di tướng quân đến xin gặp
vương gia. Tây Thục Vương vô cùng kinh ngạc, cùng các quan tướng ra đón Thục Di
vào. Vừa thấy Thục Di, Thục vương gia hỏi có chuyện gì thế? Thục Di nói vào
doanh trại rồi con sẽ thưa, Thục Di liền kể lại đầu đuôi sự việc rồi nói kế
sách tấn công giặc đã bị bại lộ. Tây Thục Vương cùng các quan tướng lấy làm
kinh hãi, nói may thay may thay, nếu không nhờ vào sự linh thiên của Cha Trời
Địa Mẫu hai Đấng Tiên Rồng cùng Hồn Thiên sông núi gia hộ thời đại họa đã giáng
xuống chúng ta rồi, tất cả chúng ta đều rơi vào miệng sói, càng nghỉ ai nấy
cũng đều kinh hãi. Ông cùng các quan tướng vái lạy lên hư không cảm ơn Cha Trời
Địa Mẫu, Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ cùng Hồn Thiên sông núi anh linh
tướng sĩ che chở.
Mục tiêu một coi như bỏ, chuyển sang mục tiêu hai, theo phương án
tương kế tựu kế tiêu diệt địch của Thục Lao đề bạc. Lần triển khai này Tây Thục
Vương vô cùng cẩn mật vì đã hiểu Triệu Công Tiển là tay vô cùng lợi hại không
dễ gì đối phó, chỉ cần sơ hở một chút thời đại họa không biết đâu mà lường
việc điều binh khiển tướng thiếu ăn khớp, kết hợp chặt chẽ thời khó mà thu được
kết quả, muốn thắng được giặc Ân phải phối hợp ăn khớp toàn lực lượng quân Văn
Lang cánh Tây Bắc vì vậy phải có Diệp Lang điều động binh mã khi cần thiết hoặc
bố trí lực lượng tiêu diệt địch. Tây Thục Vương cùng Thục Di phi ngựa vùn vụt
theo hướng Tây Bắc, theo lời chỉ dẩn của A Lưới, chẳn mấy chốc đến nơi đại quân
của Diệp Lang đang dừng chân cách thành Tây Dương Châu hơn mười mấy dặm về
hướng Tây.
Đây nói về Đích Tôn Vương Tử Diệp Lang linh cảm Chu Công Minh sẽ
cho người cầu viện binh lên Ngạc Sùng Cảnh liền nghỉ ra một kế bắt người đưa
thư của giặc. Thiên Hương nói địa bàn rộng lớn biết bắt họ ở đâu? Diệp Lang nói
hai nàng cứ theo ta, thế là hai con Thần Mã nhắm hướng Tây Bắc bay đi, lúc ấy
trời xâm xâm tối hai con ngựa hạ xuống cách doanh trại của Ngạc Sùng Cảnh về
hướng Đông Nam không xa. Diệp Lang phi thân lên hai ngọn cây cao phán đoán con
đường mật thám đi vào doanh trại mà tên thám báo đó nhất định sẽ đi qua, Diệp
Lang nhảy xuống đất ẩn dấu hai con ngựa rồi cùng hai nàng âm thầm lặng lẽ đến
sát doanh trại ẩn mình chờ đợi. Diệp Lang nói phải đến đầu canh tư chúng ta mới
tốm được chúng. Lạc Tiên không tin nhưng cũng ráng chờ, bổng nàng phát hiện
một bóng người từ xa thấp thoáng, nàng nói tên ấy tới rồi. Ngọc Thiên Hương
cũng phát hiện ra có người có lẽ là một tên thám báo.
Diệp Lang ngáp dài không phải tên đó đâu, Diệp Lang tiếp tục nhắm
mắt ngủ. Thiên Hương nhìn thấy Diệp Lang như vậy nói. Thiệt là rồi im luôn. Đầu
canh ba lại xuất hiện một người nữa, Thiên Hương đánh khẽ Diệp Lang dậy mau
dậy mau tên ấy đã đến rồi. Diệp Lang ngáp dài nói không phải đâu, Diệp Lang
tiếp tục ngủ khì, bổng Diệp Lang ngồi dậy mở mắt ra nói kinh công người nầy
nhanh ghê gớm gã sắp đến rồi, Lạc Tiên, Thiên Hương không phát hiện được gì cả.
Thì ra Diệp Lang đang tập trung xử dụng tuyệt học thiên lý nhỉ một môn tuyệt
học đã thất truyền từ lâu, nghe xa đến 6-7 dặm. Hai nàng ở đây để ta bắt chúng
vì người nầy kinh công rất cao tới sát mới bắt được. Vì có sự nói trước nên
Lạc Tiên, Thiên Hương chú tâm hết cốt vận công nghe ngóng, không bao lâu hai
nàng cũng phát hiện tiếng chân kinh công từ xa vọng lại, sau đó là một bóng
người như mũi tên lao đi, hai nàng đã thấy rõ tên thám báo, không mặc đồ giặc
Ân mà mặc đồ quân lính Văn Lang, có lẽ vì quân Văn Lang đã bao vây thành Tây
Dương Châu, nên tên thám báo nầy giã làm quân Văn Lang theo lối bí mật ra khỏi
thành trà trộn vào binh lính thoát khỏi vòng vây quân Văn Lang. Hai nàng nhìn
thấy tên thám báo bổng dừng chân lại rồi ngã lăng ra đất, một bóng người nhanh
như chớp, cắp cái xác bay đi đến chỗ hai nàng thì ra người cắp cái xác đó chính
là Diệp Lang.
Diệp Lang để cái xác ấy xuống lục lạo trong người y có một mật
thơ, Diệp Lang mở ra xem, tuy dưới ánh sao mờ nhưng Diệp Lang vẫn đọc được rỏ
ràng là nhờ nội công thâm hậu, nội dung mật thơ như sau.
Thuộc hạ vâng lệnh thống soái chiếm lấy thành Tây Dương Châu, tuy
thành đã chiếm được nhưng tử nạn hết một tướng hao hơn 3 vạn quân còn về phía
Nam hơn 10 vạn, hơn 7 vạn đi đời, 3 vạn tẩu thoát quân ta rượt đuổi chém giết
tơi bời, chúng chạy đến Tam Giang Tây Châu cầu viện binh. Trở lại bao vây thành
Tây Dương Châu thuộc hạ nghỉ với kế sách trong thành đánh ra ngoài thành đánh
vô kẹp quân Văn Lang vào giữa tiêu diệt gọn thời coi như thành công ở bước một.
Nên thuộc hạ chỉ cần 5 vạn quân kết hợp ngoài đánh vô trong đánh ra quét sạch
bọn chúng, sau đó kết hợp quân ba thành tiêu diệt trọn ổ Tam Giang Tây Châu,
thuộc hạ Chu Công Minh đang trông chờ sự chỉ đạo của Thống Soái.
Diệp Lang cùng hai nàng đọc xong mật thơ liền để mật thơ về chổ cũ
trong người tên mật thám rồi đem xác để lại nơi gã đã ngất xỉu bất tỉnh giải
huyệt đạo giải thuốc mê cho Y, ba người trở về chổ cũ ẩn núp theo dõi. Tên thám
báo tỉnh dậy nhìn xung quanh thấy doanh trại Thống Soái ở ngay trước mắt chỉ
vài mươi bước thời giáp quân canh lính gác vô cùng nghiêm ngặt, y nghỉ làm gì
có địch ở đây, Y mò vào trong mình mật thư vẫn còn y nguyên, Y lại nhìn xung
quanh một lần nữa cảnh vật vẫn yên tịnh, Y liền phi thân vào doanh trại. Bổng
nghe tiếng quát dừng lại, Y liền nói mật hiệu, sau đó không còn nghe tiếng quát
nữa.
Diệp Lang đã coi như thu lượm được kết quả như ý liền trở về nơi
đại quân đang tạm dừng chân. Một ngày mau chóng sắp qua, ánh nắng đã chuyển
sang vàng hồng dìu dịu như nhắc nhở đàng chim hãy gọi nhau tìm nơi an nghỉ vì màn
đêm sắp trở lại với non sông.
Từ nơi đại quân một bóng trắng bay lên không nhắm hướng Bắc bay đi
như một vệt mờ hạ xuống cách doanh trại giặc Ân về hướng Đông, Đông Nam chừng
5-6 dặm, một người từ lưng ngựa nhảy xuống đất. Là ai thế? Còn ai nữa, chính là
Diệp Lang lần này Diệp Lang đi có một mình vì đi nhiều dễ bị lộ. Diệp Lang
tính toán, có lẽ giờ này tên thám báo sắp rời khỏi doanh trại trở về thành Tây
Dương Châu. Và đúng như vậy từ nơi doanh trại giặc một bóng người lao ra, nhắm
hướng thành Tây Dương Châu lao đi vùn vụt, Diệp Lang bám sát theo sau, chỉ còn
độ 3-4 dặm thời tới thành Tây Dương Châu, Y dừng lại không đi nữa biết rằng mặt
trời đã xuống núi bóng đêm bao trùm lấy non sông, có lẽ Y chờ cuối giờ dậu giữa
giờ tuất mới trà trộn vào quân Văn Lang theo lối bí mật vào thành. Có lẽ Y đang
bận tính gì đó quên tập trung vào nhỉ lực, Diệp Lang đã đến gần mà Y không hề
hay biết, Diệp Lang dùng thần công phóng mê hồn hương loại không mùi vị, khác
với loại mê hồn hương lần trước, theo chiều gió bay đến Y hít phải liền bất
tỉnh nhân sự. Diệp Lang như một bóng ma với môn kinh công tuyệt thế Lăng Không
thân pháp như làng gió thoảng lướt tới chổ Y cách không xa điểm huyệt gã. Diệp
Lang lục vào mình Y lấy ra một mật thư do Ngạc Sùng Cảnh gởi, nội dung mật thư
như sau. Năm vạn quân do Hung Nô sát nhân thống lảnh chỉ huy, khi tấn công,
quân ta bắn pháo xanh 1-3-5 làm ám hiệu, thời mở cổng thành và quân ra tấn công
việc tấn công không định trước ngày giờ, có lẽ canh tư gần sáng là thích hợp
hơn, việc tấn công chỉ trong vòng 7 ngày trở lại, tùy cơ ứng biến.
Diệp Lang xem xong nội dung của mật thư liền để mật thư vào chỗ cũ
trong người tên mật thám, giải thuốc mê, giải huyệt đạo cho Y rồi phi thân vào
màn đêm mất dạng. Nói về tên thám báo giặc Ân, tỉnh dậy ngơ ngác tự hỏi chuyện
gì đã xảy ra, không lẽ ta đã bị trúng độc, Y liền vận thử thấy kinh mạch thông
suốt, Y vận công lấy tai nghe ngóng không phát hiện được gì. Biết thời cơ trà
trộn vào quân Văn Lang đã đến Y thi tiển kinh công đến xuất quỷ nhập thần trà
trộn tài tình quân Văn Lang không phát giác nỗi, Y lẳng vào nơi bí mật rồi mất
hút. Có lẽ nơi đây có lối bí mật thông vào nội thành, một bóng người ẩn hiện
như ma, quỷ lướt tới xem xét nói thì ra là thế có lẽ tên đó đã lọt vào nội
thành, ta trở về chỗ đại quân thôi, chỉ cần một cái nhích chân người đó đã
biến mất trong đêm tối.
**************
HẾT QUYỂN 3
0 nhận xét:
Đăng nhận xét