QUỐC BẢO CHÂN KINH
VĂN
LANG
CHIẾN
SỰ
3
THIÊN ẤN THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI
2013
Nguyễn Đức Thông
QUYỂN 4
PHẦN 25
Nói về phương Bắc nhà Chu các nước tranh bá tranh hùng thôn
tính với nhau vô cùng khốc liệt. Các nước Phương Bắc những nước lớn nhất cũng
chỉ bằng một bộ Văn Lang mà thôi, phần đông các nước Phương Bắc chỉ bằng một
Châu, nhiều nước chỉ bằng Quận, Huyện Văn Lang. Ở điểm nầy cũng đủ biết Văn Hóa
Văn Lang là Văn Hóa thống nhất từ Trung Ương đến Bộ, Châu, Quận,
Huyện, không phải là Văn Hóa phân chia thành các trấn chư hầu nhiều nước
như phương Bắc. Dẫn đến thôn tính lẫn nhau tranh bá tranh hùng. Chỉ có một nước
Văn Lang rộng lớn duy nhất nhiều Bộ, nhiều Châu, nhiều Quận, Huyện thống nhật
từ trên xuống dưới. Không có cảnh tranh giành thôn tính lẫn nhau. Trừ khi các
Bộ, Châu, Quận, Huyện nổi lên đòi tự trị xưng là Vua nầy Vua nọ theo xu thế Văn
Hóa Phương Bắc nhà Chu tranh bá tranh hùng thôn tính lẫn nhau, phương Bắc thời
nhà Chu có cả đến hàng trăm nước. Nước nầy thôn tính nước kia, nước kia thôn
tính nước nọ chiến tranh triền miên lúc thì dữ dội lúc thời thâm trầm bao cái
độc được đêm ra xử dụng đến đỉnh cao độc quyền, độc tài, độc trị, độc tâm, độc
tánh, độc ác, bao cái độc đem ra dùng hết không chừa món chi cũng chỉ vì thâu
tốm quyền lực danh với lợi cũng cố độc tài độc trị cho cá nhân mình. Không kẻ
gì đạo lý con người, không ít Vương, Quan, Vua, Chúa hung tàn bạo ác tàn sát cả
người thân ruột thịt, mất hết lương tri. Ở vào thời kỳ đen tối ấy xuất hiện kỳ
nhân ra đời hiệu là Khổng Tử. 555 trước công nguyên, Khổng Tử sinh ở Ấp Trâu ,
thuộc làng Xương Bình người nước Lỗ tên là Khâu tự là Trọng Ni. Cha là Thúc Lương
Ngột. Thúc Lương Ngột lấy con gái họ Thi nước Lỗ không có con, người thiếp sanh
được một con, tên là Mạnh Bì, nhưng lại có tật ở chân. Thúc Lương Ngột mới sai
người đến nhà họ Nhan để cầu hôn. Họ Nhan có năm người con gái đều chưa gả
chồng, có ý chê Thúc Lương Ngột đã già, Nhan Ông mới bảo các con rằng.
Các con có đứa nào thuận kết duyên với quan đại phu ở Trâu Ấp
không ?
Các con các cô chị không ai trả lời cả, chỉ riêng người con gái út
tên là Nhan Thị đứng dậy thưa rằng. Phận làm con thời phải theo lời Cha. Cha
đặt đâu thời con ngồi đó còn phải hỏi gì. Nhan Ông nghe con gái út nói thế lấy
làm lạ, bằng gả Nhan Thị cho Thúc Lương Ngột. Vợ chồng Thúc Lương ngột sợ
tuổi già hiếm con nên thường đến cầu tự ở Ni Sơn. Một hôm Nhan Thị nằm mộng thấy
Thần Hắc Đế triệu đến mà bảo rằng. Sau nầy nàng sẽ sanh được con Thánh. Một hôm
Trưng Tại mơ mơ màng màng, trông thấy năm ông cụ già đứng dưới sân, tự xưng là
năm vì sao, dắt một con thú như con trâu con có một sừng, mình lại có vằn. Con
Thú ấy trông thấy Nhan Thị thời nằm phục ngay xuống nhả cái thước ngọc trong
miệng ra. Trên cái thước ngọc có câu văn rằng: “ Con nhà Thủy Tinh, nối đời Chu
suy mà làm Tố Vương”.
Nhan Thị lấy dải lụa buộc vào sừng con thú dắt đi khi tỉnh dậy
thời biết mình đã có thai. Nhan Thị đem chuyện thấy trong mơ cũng như sự mang
thai của mình kể lại cho Thúc Lương Ngột nghe. Thúc Lương Ngột nói con thú ấy
chính là con Kỳ Lân. Nhan Thị sanh ra đứa bé có nhiều tướng lạ trên đầu gồ giữa
lõm cho nên đặc tên là Khâu, tức là trên đầu nhô lên cái gò, môi như môi Trâu,
tay như tay Hổ, vai như vai Chim Uyên, lưng như lưng con Rùa. Miệng rộng, hầu
lộ, trán phẳng mà cao. Thúc Lương Ngột nói.
Vì hai ta cầu Tự ở Ni Sơn mà được đứa bé nầy, vậy thì ta đặc tên
cho con là Khâu tự là Trọng Ni. Khổng Tử sanh ra thời Thúc Lương Ngột qua đời,
chôn ở núi Phòng Sơn. Núi Phòng Sơn ở phía đông nước Lỗ. Khổng Tử không biết mộ
Cha ở đâu. Vì Mẹ Ông kiêng kỵ không nói cho Ông biết mồ Cha ở đâu. Đến khi Mẹ
chết Khổng Tử chôn tạm Mẹ ở con đường Ngũ Phụ. Vì Ông cẩn thận. Mẹ của Văn Phụ
người đất Trâu, nói cho Khổng Tử biết nơi mộ của Cha. Cho nên về sau Khổng Tử
hợp tán cả Cha và Mẹ ở núi Phòng Sơn.
Khổng Tử nghèo hèn lớn lên làm công cho họ Quý nhờ sự thông minh
hơn người tính toán đo lường minh bạch, nên được làm chức coi súc vật được, ít
lâu thời được Lỗ Định Công trọng dụng. Khổng Tử trưởng thành mình dài chín
thước sáu tất, có Thánh Đức, ham học. Mộ hôm Họ Quý trọng đãi những kẻ sĩ,
Khổng Tử cũng đến để tham dự. Dương Hổ mắng Khổng Tử. Họ Quý trọng đãi kẻ sĩ
không phải trọng đãi nhà ngươi đâu. Khổng Tử nghe xong bèn rút lui. Từ đó Khổng
Tử chỉnh đốn tu Thân hàng ngày diệt Tà Ý bất chính trong lòng bằng phương pháp
túi hạt đậu đen đậu trắng, nếu nói câu trái lương Tâm chẳng lành thời bỏ hạt
đậu đen vào cái túi. Nói được một lời thiện thời bỏ hạt đậu trắng vào cái túi.
Và cứ thế Khổng Tử ngày nào cũng tự mình phân xử lấy thiện ác của mình đến năm
thứ 3 thời hạt đậu trắng nhiều hơn hạt đậu đen Khổng Tử biết mình sắp thành
chính nhân quân tử và nhiều tháng liền Khổng Tử thấy trong bao đựng ngày nào
cũng toàn là hạt đậu trắng thời biết mình đã trở thành Thánh Thiện. Từ đó Khổng
Tử thường đi chu các nước, khắp thiên hạ chỗ nào cũng có học trò. Khi còn nhỏ
Khổng Tử thích chơi trò Tế Lễ Cúng Bái. Lớn lên Khổng Tử thông thạo các Lễ
nhạc, cũng như hiểu rõ sự lợi ích của Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín. Nên Vua
các nước đều muốn trọng dụng Khổng Tử. Nhưng lại bị các nhà quyền quý đem lòng
ganh ghét, thành ra không nước nào dùng được. Khổng Tử người nước Lỗ. Năm thứ
19 đời Chu Kính Vương. Khổng Tử thấy Lỗ Định Công ngày đêm ham mê tử sắc lời ca
tiếng hát, chẳng nghĩ gì đến chính sự chán ngán thở dài. Học trò Khổng Tử là
Trọng Do đứng hầu bên cạnh nói rằng: Chúa Công chẳng nghĩ gì đến chính sự Thầy
nên đi nước khác. Khổng Tử liền bỏ nước Lỗ sang nước Vệ. Một hôm Vệ Linh Công
ngồi cùng xe với nàng Nam Tử, để Khổng Tử đi xe sau. khổng Tử thở dài mà than
rằng: Vua Vệ yêu đức không bằng yêu sắc. Khổng Tử liền bỏ Vệ sang Tống cùng học
trò giảng Lễ ở dưới một gốc cây lớn. Quan Tư Mã nước Tống là Hoàn Khôi được
Tống Cảnh Công trọng dụng nên có quyền thế y rất ghét Khổng Tử sai quân binh
chặt cây đi rồi tìm cách giết Khổng Tử. Khổng Tử phải cải trang bỏ trốn sang
Trịnh. Trịnh có ý muốn hảm hại Khổng tử lại trốn sanh Tấn. Tấn không dùng Khổng
Tử. Khổng Tử trở về nước Vệ. Không bao lâu thời Vệ Linh Công mất. Con Khoái Quý
lên ngôi thay cha trở thành Vệ Xuất Công. Khổng Tử nhìn thấy cảnh hai cha con
Khoái Quý tranh giành quyền lợi lẫn nhau, không kể gì Đạo Cha Con, Tấn giúp
khoái Quý. Tề giúp Công Tử Triếp. Hai cha con tương tàn chém giết lẫn nhau
không còn nhân tính. Khổng Tử thấy vậy bỏ Vệ sang Trần, nước Trần không trọng
dụng Khổng Tử, Khổng Tử sang nước Sái. Nhưng nước Sái cũng không mấy mặn mà với
Khổng Tử. Sở Chiêu Vương nghe tin Khổng Tử không ở nước Trần cũng như nước Sái
thời cho người đi đón. Các Quan đại phu nước Trần nước Sái sợ nước Sở dùng
Khổng Tử thì nguy cho nước mình, bằng đem quân vây Khổng Tử. Khổng Tử phải nhịn
đói liên trong ba ngày. Nước Sở đem quân đón Khổng Tử. Khổng Tử đến nước Sở. Sở
Chiêu Vương mừng lắm, toan đem đất lý xa phong cho Khổng Tử. Quan Lệnh Doãn là
Công Tử Thân can rằng: Ngày xưa Văn Vương ở phong, Vũ Vương ở kiểu, chỉ độ một
trăm dặm đất mà biết tu thân tích đức. Thành ra thay quyền Nhà Ân lên làm vua.
Nay đức tính của Khổng Khâu chẳng kém gì Văn Vương và Vũ Vương mà học trò đều
là bậc nhân sĩ hiểu đạo lễ nghĩa bậc hiền. Nếu phong đất cho Khổng Khâu thời
sau nầy tất là thay quyền nước Sở ta mất. Sở Chiêu Vương nghe Công Tử Thân
khuyên can như thế nên thôi không phong đất cho Khổng Tử. Khổng Tử biết là Sở
Chiêu Vương không thể dùng mình được. Khổng Tử lại bỏ Sở trở về nước Vệ. Cuộc
đời Khổng Tử là như thế Vua các nước đều muốn trọng dụng Khổng Tử. Nhưng lại bị
các nhà quyền quý ganh ghét hảm hại Vua phải nghe theo các triều Thần. Vì
phương Bắc ở vào thời đó là thời đại đỉnh cao của Phong Kiến Thần Giáo. Vua
thường làm theo nghe các Triều Thần, Đạo Khổng Tử là Thánh Giáo luôn bị Thần
Giáo bác bỏ vì sợ Thánh Giáo của Không Tử chuyên xây làm hại. Những học trò ưu
tú Khổng Tử, như Tử Lộ, Trọng Do, Tử Cống, Nhan Hồi, Nhiễm Cầu, thường nghe
Khổng Tử than Thiên hạ mất đạo làm người từ lâu rồi. Chỉ biết chạy theo cái tài
tranh hùng tranh bá, nên không mấy ai biết theo ta, để trở thành Đạo Quân Tử
đích thực.
Ở vào thời đại Phong Kiến Thần Giáo tôn thờ cái Tài là chính, cái
Đức chỉ là phụ tranh bá tranh hùng tôn tính lẫn nhau bất chấp thủ đoạn tàn độc
vô cùng. Khổng Tử đi đến đâu thường gặp bất lợi đến đó một hôm Khổng Tử hỏi
Nhan Hồi.
Nho Đạo của Ta phải chăng là sai ?
Tại sao Ta mãi gặp cảnh thế nầy ?
Nhan Hồi nói:
Đạo Quân Tử Phu Tử hết sức lớn lao, nên cả Thiên Hạ không ai dung
nạp được. Nhưng Phu Tử cứ theo đó mà làm, người ta không dung nạp thời có hại
gì ? Người ta sau nầy sẽ thấy Đạo Phu Tử là Đạo người quân tử. Cái Đạo
làm sáng cái Đức con người. Cái Đạo an ban tế thế. Kẻ làm Vua chúa mà không
dung nạp cái Đạo của Phu Tử thời khó mà giữ yên ngội vị độc tôn của mình.
Và đúng vậy :
Hai trăm năm sau đến thời Nhà Hán. Khi ấy Bắc Việt Trung Nguyên đã
xác nhập về Phương Bắc ở vào thời Chu Nguyên Vương. Nhà Hán ra đời Đạo Khổng
được phát huy tác dụng tôn vinh lên đến đỉnh cao của Nho học Khổng Giáo. Phương
Bắc chuyển sang giai đoạn mới, Giai đoạn Phong Kiến Vua Chúa theo Nho Giáo, lấy
Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín làm sáng cái Đức của người quân tử .
Và Lễ luôn đặc lên hàng đầu. Những điều cơ bản của Lễ, trong nghi lễ. Lễ nghi,
Lễ Nhạc vô cùng quan trọng làm hưng thịnh của Nho Giáo.
Lại nói về Vua Ngô là Hạp Lư thôn tính nước Sở uy danh lừng lẫy.
Sanh ra chơi bời sửa sang cung thất, lập cung thường lạc ở giữa kinh thành. Lại
cho người xây đắp Cao Đài ở trên núi Cô Tô ( núi ở phía Tây Nam thành nước Ngô
cũng là núi Cố Tư ) Mở một con đường chín khúc đi vòng quanh núi. Mùa xuân và
mùa Hạ, Hạp Lư ở ngoài thành. Mùa thu mùa đông thời vào ở trong thành. Ăn chơi
trác tán. Tôn Vũ là người thức thời, hiểu rõ tướng sự đời cũng chỉ vì tham vọng
tranh hùng tranh bá chém giết lẫn nhau không mấy Vua tôi là người có Đạo chỉ lo
cho cái túi tham của mình. Tôn Vũ không muốn làm quan nữa tuy biết rằng mình đã
lập nhiều công lớn cho nước Ngô. Tôn Vũ xin về núi tu tiên trở lại. Hạp Lư sai
Ngũ Viên lôi kéo Tôn Vũ ở lại.
Tôn Vũ bảo Ngũ Viên rằng:
Ngài còn không biết Đạo Trời hay sao ? Nóng lắm thời rét
nhiều. Xuân qua thời Thu đến. Nay Đại Vương cậy mình cường thịnh tất sinh lòng
kêu ngạo không coi ai ra gì tất nhiên nhiều biến loạn. Nếu tôi không xin đi ở
ẩn thời tránh sao cho khỏi hậu hoạn. Chẳng những Tôi lo cho Tôi mà còn lo cho
Ông nữa. Ngũ Viên nghe Tôn Vũ nói không cho là phải. Tôn Vũ trở về núi tìm nơi
ẩn dật tu tiên. Hạp Lư đưa tặng mấy xe vàng, lụa. Lúc đi đường Tôn Vũ đem ban
phát vàng lụa cho những dân nghèo khổ về sau không ai biết Tôn Vũ đi đâu.
Thơ rằng :
Tôn Vũ ngộ ra Đạo luật trời
Nhân nào quả nấy khó an ngơi
Hại người người hại xưa nay thế
Huyền cơ xây chuyển họa đến nơi.
Một hôm Hạp Lư nghĩ đến cái thù Việt Trung Nguyên đánh bại Ngô khi
trước, càng nghĩ càng giận. Hạp Lư nghe theo Ngũ Viên lập Phù Sai làm Thế Tôn.
Phù Sai đến nhà Ngũ Viên tạ ơn. Năm thứ 24 đời Chu Kính Vương. Hạp Lư tuổi già.
Tính khí càng thêm nóng nảy. Nghe tin Việt Vương Doãn Thường qua đời. Con là
Câu Tiễn lên thay thế. Khi ấy ở Phương Nam Văn Lang Hùng Việt Vương Tuân
Lang đã nhường ngôi cho con là Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang. Hùng Vương đời
thứ 14 Hạ Hùng Vương. Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang đời thứ 14 lên ngôi
đã được 10 năm nhờ thực hiện theo chính sách của Lạc Hầu Vương. Nam - Trung Văn
Lang trở nên hùng mạnh nhiều lần đánh bật quân Việt Trung ra khỏi Trung Văn
Lang chiếm lại nhiều Châu, Quận, Huyện. Khi ấy phương Bắc bên kia sông Trường
Giang Hạp Lư nước Ngô nghe tin Việt Vương Doãn Thường đã mất. Con là Câu Tiễn
lên thay thế, bèn nhân khi nước Việt có tang đem quân sang đánh vì lúc ấy thế
lực quân Ngô rất hùng mạnh tiếng tăm lừng lẫy. Ngũ Viên can rằng: Việt Trung
Nguyên tuy nhiều lần đánh Ngô ta nhưng nay đang có tang chớ nên đánh vội. Hạp
Lư không nghe, giao quốc chính lại cho Ngũ Viên và Phù sai rồi cùng bọn Bá Di,
Vương Tôn Lạc và Chuyên Nghị đem 10 vạn tinh binh tiến đánh Việt Trung Nguyên.
**************
PHẦN 26
Nói về Hạp Lư 496 trước công nguyên thống lĩnh 10 vạn chủ lực tinh
binh vượt qua sông Trường Giang tiến đánh Việt Trung Nguyên. Hạp Lư quá rõ Việt
Trung đang xuống đà suy yếu vì Quân Văn tấn công ra Bắc dữ dội, bao nhiêu sức
lực Việt Trung Nguyên dồn hết lực lượng cho cuộc chiến tranh Nam - Bắc nầy. Với
tình hình trong Nam Văn Lang đánh ra. Còn Ngô thời phương Bắc đánh vào Việt
Trung Nguyên keo nầy nhất định thất thủ.
Việt Vương Câu Tiễn được tin báo là Hạp Lư Vua Ngô thống lĩnh đại
quân vượt Trường Giang đánh chiếm Việt Trung Nguyên, bằng thân hành thống lĩnh
quân Việt Trung Nguyên giao chiến.
Việt Vương Câu Tiễn. Phong cho Chư Kế Dĩnh làm đại tướng. Linh Cô
Phù làm tiên phong. Trù Vô Dư và Tư Hãn làm tả hửu dực . Đối mặt với quân Ngô ở
đất Hề, hai bên đóng dinh cách nhau 10 dặm. Ngày nào cũng cùng nhau giao chiến,
chưa phân thắng bại. Hạp Lư giận lắm mới dồn hết quân lên bày trận ở Ngũ Đài
Sơn nghiêm cấm trong quân không được kinh động, chờ quân Việt Trung Nguyên trễ
nải sẽ đánh.
Việt Vương Câu Tiễn trông thấy quân Ngô quân lệnh nghiêm chỉnh bèn
bảo Chư Kế Dĩnh rằng: Khí thế quân Ngô đang hăng hái như thế kia,
ta chớ nên khinh thường, dùng kế làm cho quân binh Ngô rối loạn ta mới nắm chắc
được phần thắng. Việt Vương Câu Tiễn sai Quan Đại Phu là Trù Vô Dư và Tư Hãn
thúc quân binh hai bên tả hửu đánh thẳng vào hai bên tả hửu dinh trại của quân
Ngô, quân việt Trung Nguyên phất cờ chiêng trống dậy trời gươm đao giáo mác
sáng ngời ào ào lao tới. Hạp Lư không những lúc nào cũng tham lam dòm ngó Việt
Trung Nguyên mà còn vô cùng căm giận Doãn Thường Việt Vương lên tới đỉnh vì
Doãn Thường đã đánh bại vua Ngô Hạp Lư sít bỏ mạng nhiền lần. Hạp Lư thấy quân
Việt Trung Nguyên ào ào xông tới đánh vào tả hửu đại quân liền ra linh giữ
nguyên tư thế dùng cung tên, cung nỏ mà chống trả lại. Quân Việt Trung Nguyên
không phá nổi quân Ngô lại tổn hao quân binh càng đánh quân Việt Trung Nguyên
càng thua thiệt. Câu Tiễn đành phải rút quân trở lại. Câu Tiễn không làm gì
được trước trận của quân Ngô lấy làm lo lắng. Chư Kế Dĩnh liền mật tâu rằng. Ta
nên dùng lũ tội nhân ...
Ngay ngày hôm sau Việt Vương Câu Tiễn liền làm theo kế sách của
Chư Kế Dĩnh, mật truyền quân lệnh bắc lũ tội nhân sung vào quân binh, cả thảy
hơn năm trăm người, chia làm ba toán quân để trần vai áo dàng thành hàng ba
cùng hơn vạn quân binh tiến tới dinh trại quân Ngô.
Nói về Hạp Lư nhìn thấy quân Việt Trung Nguyên từ xa tiến đến có
điều khác lạ chỉ có hơn một vạn quân, quân tiên phong là những chiến binh vai
lưng trần. Thời nghĩ rằng quân Việt Trung Nguyên điên rồi chắc không sợ tên của
ta sao ? Lại chỉ hơn một vạn quân không sợ ta xơi một phát là hết sạch. Không
những Hạp Lư nghĩ như thế mà cả quân Ngô đều nghĩ như vậy nên ai nấy chăm chú
mà nhìn. Tốp quân đi đầu tiến sát đến quân Ngô nói lớn với quân Ngô rằng: Chúa
Công tôi không biết tự lượng sức mình, đắc tội với quý quốc. Nay quý quốc đã
đem quân sang đánh chúng tôi không dám tham sống xin tình nguyện chết thay cho
Chúa Công chúng tôi. Người tốp đi đầu nói xong thời cả bọn thi nhau thứ tự đâm
vào cổ mà chết. Tốp nầy chết sạch tốp khác tiến lên thi nhau đâm vào cổ mà chết.
Chuyện lạ chưa từng thấy xảy ra bao giờ quân Ngô ngơ ngác trước chuyện quái lạ
bất ngờ đang xảy ra trước mắt không tập trung đề phòng cảnh giác chú ý quân
Việt Trung Nguyên. Quân Ngô cứ ngây mặt ra mà nhìn hết lớp nầy đâm cổ tự sát,
tới lớp kia đâm cổ tự sát lần lược thi nhau ngã gục có hơn năm trăm người lao
nhao hỏi lẫn nhau. Bất thình lình nghe thấy quân Việt Trung nguyên những người
chưa tự sát nổi trống. Từ xa quân Việt Trung Nguyên Trù Vô Dư và Tư Hãn lãnh
đạo duy chuyển quân binh thần tốc từ phía bên phải đánh bọc lên vào bên trái
quân Ngô. Chư Kế Dĩnh, cùng Linh Cô Phủ từ phía tả duy chuyển quân thần tốc
đành bọc vào cánh hửu quân Ngô. Quân Ngô hốt hoảng quân binh rối loạn. Việt
Vương Câu Tiễn thần tốc duy chuyển quân binh tấn công vào mặt trước. Phía hửu
có Trừ Vô Dư, Tư Hãn. Phía tả có Chư Kế Dĩnh, Linh Cô Phù, trước mặt có Việt
Vương Câu Tiễn ba mặt tấn công thần tốc. Tướng quân Ngô là Vương Tôn Lạc cố sức
chống trả lại sức mạnh tấn công của Chư Kế Dĩnh, Linh Cô Phù nhìn thấy Vua Ngô
là Hạp Lư liền phi ngựa lao tới cầm trường đao chém Hạp Lư như sấm sét.
Hạp Lư kinh khiếp bỏ chạy Linh Cô Phù đuổi theo, chém vào chân phải của Hạp Lư
rụng hết mấy ngón chân, còn bị trúng tên Hạp Lư ngã lăng xuống đất. May có
Chương Nghị đến cứu kịp thời. Chương Nghị cũng bị nhiều vết thương nặng. Bá Di
cũng tiếp ứng bảo vệ Hạp Lư. Vương Tôn Lạc thấy Hạp Lư bị thương không còn ham
đánh nữa vội rút quân. Quân Ngô thua to ở đất Lý Hề. Quân Việt Trung Nguyên
thắng thế đuổi theo giết chết quân Ngô quá nữa. Hạp Lư bị thương quá nặng dẫn
quân tàn quân bại trận trở về nước trong nổi vừa khiếp sợ vừa nhục nhã ê chề.
Linh Cô Phù lượm chiếc giày cùng năm ngón chân đầy máu của Hạp Lư dâng lên cho
Việt Vương Câu Tiển. Việt Vương Câu Tiễn mừng lắm thưởng vàng bạc châu báu mấy
xe cho Linh Cô Phù.
Bấy giờ Hạp Lư tuổi đã già, không chịu đau không nổi trên đường
rút tàn quân về nước sực nhục nhã còn đau hơn vết thương nặng ức khí thét to
lên một tiếng trào máu mà chết. Trước khi chết Hạp Lư thều thào nói với Vương
Tôn Lạc, Bá Di, Chuyên Nghị là nói với Phù Sai trả thù mối nhục nầy.
Nói về quân Việt Trung Nguyên đuổi theo quân Ngô chém giết đã đời
hơn bảy dặm thời rút quân trở lại. Bá Di, Vương Tôn Lạc, Chuyện Nghị đưa xác
Hạp Lư về nước Ngô. Phù Sai lên nối ngôi thay thế Hạp Lư đưa linh cữu Hạp Lư ra
an tán ở Hải Dũng Sơn. Phù Sai cho người đào núi làm huyệt, rồi đem Ngư Trường
của Chuyên Chư dùng khi trước đâm chết Vương Liêu chôn theo, cùng rất nhiều
vàng ngọc. Khi an tán Hạp Lư xong Phù Sai cho người giết sạch những bọn thợ an tán
Hạp Lư. Chương Nghị bị thương khá nặng không bao lâu cũng qua đời chết theo Hạp
Lư phụ tán ở sau núi. Phù Sai an tán Hạp Lư không bao lâu thời lập con trưởng
là Hữu lên làm Thế Tử. Để nhắc nhở mối thù không đội trời chung với Việt Vương
Câu Tiễn. Phù Sai cho lập một đội nội thị hằng ngày đứng giữa sân, mỗi khi Phù
Sai đi ra đi vào thời đội quân nội thị quát to lên rằng gọi tên mà bảo: Phù
Sai: Mầy quên cái thù Vua Việt giết chết Ông Cha mầy rồi sao ?
Phù Sai liền khóc mà đáp rằng :
Dạ không bao giờ dám quên.
Phù Sai ngày đêm dốc toàn lực sai Ngũ Viên và Bá Hi luyện tập thủy
quân ở Thái Hồ, luyện tập trường bắn ở Linh Nham Sơn, đợi khi hết tan ba năm sẽ
khởi binh đánh nước Việt Trung Nguyên báo thù. Việt Vương Câu Tiễn được tin Vua
Ngô ngày đêm luyện tập quân binh chửng bị đánh Việt. Việt Vương Câu tiễn muốn
tiến quân sang Ngô đánh trước không để cho Ngô đủ sức mạnh đánh Việt.
Phạm Lãi can. Tôi thường nghe nói khi xưa Hùng Vương dựng nước Văn
Lang, cực chẳng đã mới đêm quân sang đánh nước người ta. Đưa quân xâm lược là
điều trái với Đức. Tranh nhau là việc thấp hèn nhất. Lo âm mưu thôn tính nước
khác là điềm gở, trái Thiên Ý của Trời. Nếu làm là bất lợi. Tôi nghe đâu Hùng
Vương truyền dạy như vậy. Việt Vương Câu Tiễn không muốn nghe về lời truyền dạy
Quốc Tổ Vua Hùng nên không nghe lời khuyên của Phạm Lãi bằng nói Ta đã quyết
định. Bèn cất quân sang đánh nước Ngô. Vua Ngô là Phù Sai đêm tất cả tinh thần
luyện tập cũng như sự quyết tử của mình đánh quân Việt Trung Nguyên thua to ở
Phù Liêu đi tiêu hơn 10 vạn quân. Việt Vương Câu Tiễn đem tàn quân trở về Việt
Trung Nguyên cũng cố lại lực lượng phòng khi Phù Sai cử binh sang tấn công.
Khi ấy ở phía Nam Việt Trung Nguyên quân Văn Lang được lệnh Hùng
Ánh Vương, Chân Nhân Lang tấn công ra Bắc. Do Hùng Lạc Vương thống lĩnh 20 vạn
quân trực tiếp chỉ huy từ Kinh Đô Văn Lang tiến thẳng đến Ninh Hải Châu kế hợp
với quân Huỳnh Trung Kỳ, quân Văn Bá tiến đánh lấy lại Quang Hải Châu, Môn Hải
Châu. Quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên thua chạy về Lạc Trung Giao
Châu ra sức cố thủ chống trả lại quân Văn Lang. Hùng Lạc Vương thần tốc duy
chuyển quân binh nhanh chóng tiến về Tiên Châu kết hợp với quân thống soái Văn
Trội con trai lớn Văn Khánh tiến quân đánh Bạch Lang Châu, quân loạn tặc phản
loạn Việt Trung Nguyên thua chạy về doanh trại núi Bà Lộc Điền cố thủ ở đấy
quyết liệt chống trả lại quân Văn Lang. Hùng Lạc Vương lại kéo đại binh
đến Thạch Vân Châu kết hợp với quân Lê Mạnh Càn tiến đánh lấy lại Âu Tây Châu
đánh không được vì có Phù Châu có pháp thuật thần thông làm cho đất trời u ám
cuồng phong ù ù quân Văn Lang không cách gì tiến đánh thành Âu Tây Châu được,
Hùng Lạc Vương chưa biết phải làm sao thời bổng xuất hiện một tiểu đồng cầm gậy
Rồng chỉ vào thành Âu Tây một cái tức thời trời quang mây tạnh cuồng phong cũng
tan biến hết. Hùng Lạc Vương liền tiếng quân đánh chiếm lấy lại thành Âu Tây
Châu quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên thua chạy về Uất Lang Việt Châu
ra sức chống trả cố thủ ở đấy. Quân Văn Lang lấy lại Âu Tây Châu, Bạch Lang
Châu, Quang Hải Châu, Môn Hải Châu. Đại quân Văn Lang còn thọc sâu ra Bắc Văn
lang tức là Việt Trung Nguyên chiếm lĩnh nhiều Châu, Quận, Huyện khác nữa.
Nói về Việt Vương Câu Tiễn không thể điều động quân binh từ trận
địa phía Nam về Kinh Đô được cũng cố lực lượng đươc.
Mùa xuân tháng hai năm thứ 26 đời Chu Kính Vương Vua Ngô là Phù
Sai đã hết tang Cha mới cáo nhà thái miếu, rồi sai Ngũ Viên làm đại tướng, Bá
Hi làm phó tướng, thống lĩnh đại binh theo đường thủy qua Thái Hồ xuôi theo
sông Dương bọc theo sông Lạc tiến đánh Việt Trung Nguyên. Vua Việt Vương Câu
Tiễn họp triều thần lại bàn kế sách chống lại quân Ngô đang tiến quân theo
đường thủy trên đường thọc sâu vào địa phận Việt Trung Nguyên. Quan đại phu là
Phạm Lãi tâu rằng. Vua Ngô Phù Sai vì trả mối thù Ông, Cha chí báo thù ba năm
nay rồi, quyết tiêu diệt Việt Trung Nguyên ta. Lại thêm khí thế hừng hực vì đã
đánh bại quân ta ở Phù Liêu ta khó mà lòng địch nổi phải nên nghĩ cách cố thủ
mới được.
Quan đại phu là Văn Chủng tâu rằng : Cứ như tôi thiển nghĩ thời không gì bằng sai người xin lỗi đễ cầu
hòa, để cho Phù Sai rút quân về rồi sau sẽ định liệu. Việt Vương Câu Tiễn nói:
Hai người một người nói thủ, một người nói hòa, đều không phải là
thiện kế. Phù Sai Vua Ngô hiện giờ là kẻ thù của ta, quyết tâm đem quân sang
đánh ta, nếu ta không đánh lại thời chẳng hèn lắm ru. Việt Vương Câu Tiễn liền
thống lĩnh bảy vạn quân cùng mấy trăm chuyến thuyền chận đánh quân Ngô ở địa
phận Tiêu Sơn. Lúc mới giao chiến thuyền quân Ngô hơi lùi lại Quân Việt Trung
Nguyên thừa lấn thế tiêu diệt hơn bảy tám chiến thuyền đi tiêu hơn vài trăm
quân Ngô. Việt Vương Câu Tiễn thừa thắng ra sức chống chèo rượt quân Ngô đến
mấy dặm. Đến khúc sông lớn từ nơi lùm lách kinh rạch đại binh quân Ngô bất ngờ
lao ra chật cả sông hai bên xáp chiến. Quân Ngô lợi thế gió Bắc. Quân Việt
Trung Nguyên thất thế ngược gió. Phù Sai đứng ở mũi thuyền tay cầm dùi đánh
trống đốc thúc quân binh tướng sĩ chiến đấu. Gặp lúc gió Bắc nổi lên cấp 8 cấp
9 sóng nổi dữ dội. Ngũ Viên, Bá Hi mỗi người một chuyến thuyền lớn giương bờm
thuận gió xuôi dòng mà tiến. Quân Ngô lợi thế về mọi mặt, thi nhau nỏ, cung,
bắn ra như mưa, bắn xối xả vào quân Việt Trung nguyên. Quân Việt Trung Nguyên
ngược gió không thể đương nổi, thua to bỏ chạy. Quân Ngô chia làm hai đạo quân
đường thủy đường bộ rượt đuổi theo tiêu diệt quân Việt Trung Nguyên. Tướng Việt
là Linh Cô Phù đắm thuyền mà chết. Tư Hãn cũng bị tên bắn chết. Vua Ngô Phù Sai
thừa thắng đuổi theo giết quân Việt Trung Nguyên không biết bao nhiêu mà
kể. Việt Vương Câu Tiễn thua chạy về cố thành Quân Ngô rượt theo vây kín. Cũng
may ở cố thành sông suối có nhiều cá để mà sống. Biết không thể nào trụ vững ở
cố thành được. Việt Vương Câu Tiễn liền dẫn tàn quân lẻn chạy về núi Cối Kê
quân sĩ chỉ còn hơn năm nghìn quân. Quân Ngô biết được kéo đại binh bao vây Cối
Kê con gà con chó cũng khó lọt qua. Phù Sai lại ra lệnh siết chặc vòng vây Cối
Kê.
Câu Tiễn thở dài mà nói rằng.
Ta có thể cùng một số người theo đường bí mật trở về Kinh Đô nhưng
làm như thế quân binh còn sót lại nơi đây chết hết. Phù Sai Vua Ngô sẽ tiến
đánh kinh đô truy sát ta. Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang mà biết kinh đô thất
thủ về tay nước Ngô thời sẽ dồm hết lực lượng tấn công ra Bắc xóa sổ Việt Trung
Nguyên Ta. Không còn huy vọng lập lại Việt Trung Nguyên nữa. Ta thà quy phục
Ngô còn huy vọng có ngày hồi phục lại Việt Trung Nguyên hùng mạnh còn hơn để
Hùng Ánh Vương xóa sổ hủy diệt.
Từ Ông đến đời Cha Tiên Quân gần năm mươi năm đến giờ chưa hề thua
trận nào như thế nầy cũng bởi ta không nghe lời Phạm Lãi và Văn Chủng đến nông
nổi nầy biết phải làm thế nào ? Phạm Lãi nói Kẻ nào giữ được trọn vẹn cái cảnh
ngộ của mình khi đầy đủ, chờ thời cơ bình định được tình hình nguy cập. Lúc nầy
cần phải tuân theo người, dùng lời lẽ khiêm nhượng bao cái lợi đưa cho người
ta. Nếu người ta không nghe thời thân hành đến thờ người ta vậy.
Văn Chủng hiến kế thêm rằng:
Nay việc đã nguy cấp quân Ngô vây kín Cối Kê mỗi lúc một nguy cấp
quân ta không thể chống trả kéo dài lâu hơn nữa, cho người xin ra cầu hòa còn
có thể kịp được.
Việt Vương Câu Tiễn nói :
Phù Sai không chịu hòa thì làm thế nào ?
Văn Chủng nói:
Nước Ngô có quan thái Tể là Bá Hi người ấy thấy vàng bạc ngọc ngà
châu báu là hiếp cả mắt, thấy gái đẹp thời chuyện gì cũng dám làm, tuy Bá Hi
đồng triều với Ngũ Viên nhưng không hợp ý nhau. Vua Ngô sợ Ngũ Viên mà thân với
Bá Hi lắm. Ta nên sang quân Ngô tìm gặp Bá Hi, khéo nói với hắn, để hắn chủ
việc giảng hòa cho. Bá Hi rất thân với Vua Ngô, Ngũ Viên biết ngăn cản cũng
không thể kịp.
Việt Vương Câu Tiễn hỏi:
Nhà ngươi sang yết kiến Bá Hi, nên dùng lễ vật gì ?
Văn Chủng nói:
Người như Bá Hi không gì bằng nữ sắc, ta nên tìm mỹ nữ mà đem
dâng, cũng như vàng ngọc châu báu quý hiếm. Nếu trời con thương nước Việt Trung
Nguyên ta thời Bá Hi tất nghe lời giúp ta. Câu Tiễn tức khắc cho người về Kinh
Đô nói với Phu Nhân tuyển chọn cung phi mỹ nữ đẹp nhất trong cung cả thảy được
tám người. Thêm hai mươi đôi ngọc bích, một nghìn nén hoàng kim, nhanh chóng
đến núi Cối Kê, qua ngày hôn sau ngay đêm hôn ấy Việt Vương Câu Tiễn sai Văn
Chủng đến dinh trại Ngô sang dinh Bá Hi xin vào yết kiến. Bá Hi lúc đầu toan từ
chối, nhưng lại sai người ra dò thời thấy có nhiều lễ vật, mới thuận cho vào.
Bá Hi ngồi vắt chân ở trên giường để đợi. Văn Chủng vào phòng quỳ xuống mà thưa
rằng. Chúa Công tôi là Câu Tiễn còn trẻ, chưa biết gì, không khéo thờ nước lớn,
để đến nổi tai vạ. Nay Chúa Công tôi đã biết hối tội, xin đêm cả nước Việt
Trung Nguyên làm tôi Vua Ngô. Nhưng sợ Vua Ngô không nghe. Chúa Công tôi biết
ngài là người có công lớn với Ngô. Ngài là bức thành che chắn cho nước Ngô, ngài
là tâm phúc của nước Ngô, Chúa Công tôi sai tôi là Văn Chủng sang để van lạy
ngài trước nhờ ngài nói giùm cho một câu, gọi là có chút lễ bạc đem dâng ngài.
Từ rày về sau trở đi còn nhiều ân nghĩa về sau nữa. Văn Chủng liền đem cái đơn
kê khai các lễ vật dâng trình Bá Hi. Nhưng Bá Hi còn làm ra vẻ giận dữ mà mắng
rằng: Nước Việt Trung Nguyên chẳng qua chỉ sớm tối thời bị phát diệt trở thành
nô lệ nước Ngô. Của cải nước Việt cái gì không về tay nước Ngô mà nhà ngươi còn
dám đem lễ vật nhỏ mọn nầy sang mua chuộc ta hay sao! Văn Chủng nói Chúa Công
tôi dẫu thua, nhưng Chúa Công tôi chưa chịu đầu hàng thời khó mà lấy được Việt
Trung Nguyên vì còn hơn mấy mươi vạn quân đang ngày đêm chiến đấu với quân Văn
Lang. Tuy Chúa Công tôi bị bao vây ở núi Cối Kê nhưng vẩn còn quân binh tinh
nhuệ có thể giao chiến một trận. Nếu giao chiến thua. Bấy giờ Chúa Công tôi
chạy về Nam Việt Trung nguyên hợp lực quân binh lại, hoặc chạy sang nước Sở
chưa chắc Việt Trung Nguyên tôi về tay nước Ngô được. Văn Chủng giải bày một
hồi lâu làm cho lòng Bá Hi chuyển động, Bá Hi mới gật đầu tủm tỉm cười. Văn
Chủng trỏ lại cái đơn kê khi lễ vật mà nói rằng: Tám mỹ nữ nầy đều là sắc nước
hương trời tuyển chọn trong cung nước Việt, nhưng nếu chọn ở ngoài dân chúng
Việt Trung Nguyên còn nhiều người đẹp hơn nữa. Chúa Công tôi trở về được kinh
đô tìm tòi mỹ nữ dâng nạp cho ngài.
Bá Hi đứng dậy nói rằng:
Quan đại phu không sang hửu dinh. Mà tới đây hẳn cũng biết là tôi
không có ý hại người. Để sáng mai, tôi xin đưa quan đại phu vào yết kiến Vua
Ngô, rồi sẽ bàn định.
Cha con Việt Vương Tế Gia. Doãn Thường nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn
Lang, biến cuộc thế Văn Lang Nam Bắc phân tranh chiến tranh loạn lạc, Bách
Việt tương tàn thê thảm vô cùng. Việt Vương tế Gia, Doãn Thường chiếm lấy
Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên, tưởng đâu bình yên muôn năm,
nào hay đâu Bắc Việt Trung Nguyên dân chúng càng ngày càng đói khổ. Một mặt do
thể chế độc tài độc trị quản lý tất cả bóc lột dân chúng thậm tệ, phụ vụ cho
thể chế độc tài độc trị, hà khắc còn hơn nhà nước Văn Lang. Dân chúng tuy bất
mãn nhà nước Việt Trung Nguyên nhưng không một ai dám lên tiếng. Vì đã quá
nhiều những người lên tiếng không bị thủ tiêu cũng bị tù đày, chết thê chết
thảm trong những trại cải tạo. Nước Việt Trung Nguyên dần dần suy yếu. Một phần
là do chiến tranh kéo dài, một phần là do dân chúng bất mãn, một phần là do thể
chế độc tài độc trị khắt nghiệt. Đến đời Việt Vương Câu Tiễn những biến cố lịch
sử xảy ra. Bị Ngô đánh bị. Ông Cha Câu Tiễn là người phương Bắc tôn thờ Văn Hóa
Phương Bắc không tôn thờ Văn Hóa Phương Nam dù biết rằng dòng họ Vũ đã
nhập cư thành dân Văn Lang. Tư tưởng Việt Vương Câu Tiễn thừa kế di chí Ông Cha
thà Việt Trung Nguyên mất về Phương Bắc còn hơn mất về Phương Nam trả Bắc
Văn Lang về cho nước Văn Lang. Vì Việt Vương Câu Tiễn biết rõ nếu quân Văn Lang
chiếm lại được Bắc Văn Lang thời Tổ Tiên thái miếu Việt Vương Câu Tiễn sẽ bị
sang bằng hủy diệt với cái tội phản bội lại nước Văn Lang. Với ý nghĩ nầy Việt
Vương Câu Tiễn có xu hướng ngã về Phương Bắc sẳn sàng dâng nước Việt Trung
Nguyên cho phương Bắc nếu có cơ hội tiến thân và đúng vậy Việt Vương Câu Tiễn
dâng nước Việt Trung Nguyên cho Nhà Chu ở vào thời Chu Nguyên Vương.
**************
PHẦN 27
Nói về Bá Hi nhận lễ vật và lưu Văn Chủng ở lại trong dinh trại
bày tiệc thiết đãi. Sáng hôm sau, Bá Hi đưa Văn Chủng vào yết kiến Phù Sai. Bá
Hi vào trước đem những tình ý Câu Tiễn sai Văn Chủng sang xin cầu hòa Phù Sai
bừng bừng sắc mặt mà bảo rằng.
Nước Việt Trung Nguyên cùng ta có cái thù không đội trời chung khi
nào ta lại cho hòa!
Bá Hi nói:
Đại Vương không nhớ lời của Tô Vũ khi xưa hay sao! Việt binh là
việc nên dùng tạm, chớ không nên dùng lâu. Nước Việt Trung Nguyên dẫu đắc tội
với ta, là do ta đem quân sang đánh Việt mới xảy ra cảnh thù không đội trời
chung. Nay Việt Trung Nguyên tùng phục nước Ngô Ta: Vua Việt xin làm Tôi nước
Ngô. Vợ Vua Việt xin làm thiếp nước Ngô. Bao nhiêu châu báu nước Việt đem dâng
nộp cho nước Ngô ta cả. Nước Trung Nguyên chỉ xin ta một điều là để cho
còn chỗ cúng tế mà thôi. Nếu Đại Vương không cho nước Việt Trung Nguyên hòa.
Câu Tiễn phá vòng vây trốn chạy về kinh đô điều động quân binh đang trấn giữ
phía Nam Việt Trung Nguyên thời càng bất lợi cho chúng ta thôn tính Việt Trung
Nguyên. Chi bằng ta nước Việt Hòa thời lợi biết dường nào. Đại Vương càng nổi
tiếng là tha cho nước Việt. Danh tiếng lại càng lừng lẫy hơn nữa. Như vậy nước
Ngô ta có cớ làm bá chủ được. Nếu cố sức mà diệt Câu Tiễn, buộc Câu Tiễn tìm
cách trốn thoát khỏi Cối Kê trở về Kinh Đô điều động quân binh phía Nam Việt Trung
Nguyên chống trả lại ta. Nếu chúng ta tiêu diệt được Câu Tiễn quân Ngô ta cũng
phải trả cái giá không nhỏ. Dù cho giết được người ấy sao bằng thu phục nước ấy
chả có phần lợi hơn ư!
Phù Sai hỏi:
Bây giờ văn Chủng ở đâu?
Bá Hi nói:
Hiện Đang đứng chờ bên ngoài.
Phù Sai cho triệu vào. Văn Chủng quỳ gối đi bằng đầu gối kéo lê
kéo lết đến trước mặt Phù Sai. Lạy một hồi rồi nói những lời nói với Bá Hi hôm
trước.
Phù Sai nói:
Vua ngươi xin làm tôi Ngô, Vậy thời Vua ngươi có chịu theo ta về
Ngô không?
Văn Chủng sụp lạy tâu rằng:
Đã xin làm tôi Ngô, thời sống chết ở trong tay Vua Ngô, thế nào
cũng xin vân lệnh.
Bá Hi nói với Phù Sai rằng:
Vợ Chồng Câu Tiễn đều tình nguyện xin về Ngô. Vậy thời nước Ngô ta
dẫu tha cho Việt cũng chẳng khác gì chiếm được nước Việt. Đại Vương còn muốn
chi nữa. Phù Sai liền cho nước Việt Trung Nguyên giảng hòa. Có người sang hửu
dinh báo tin cho Ngũ Viên biết. Ngũ Viên vội vàng vào yết kiến Phù Sai. Khi vào
đến nơi thấy Bá Hi và Văn Chủng đã đứng ở bên cạnh Phù Sai. Ngũ Viên hầm hầm
nổi giận hỏi Phù Sai rằng:
Đại Vương đã cho nước Việt Trung Nguyên giảng hòa rồi ư ?
Phù Sai nói ta đã cho giảng hòa rồi.
Ngũ Viên nói không nên không nên!
Văn Chủng hoảng sợ đứng lui xuống mấy bước để nghe Ngũ Viên nói
hết.
Ngũ Viên can rằng :
Trời đem nước Việt Trung Nguyên cho nước Ngô đây là cơ hội duy
nhất mà chúng ta có được. Việt Trung Nguyên tiếp giáp với nước Ngô ta. Hai bên
đã có hiềm thù từ lâu trải qua nhiều đời. Nếu Ngô không diệt được Việt. Thời
Việt cũng diệt Ngô. Kìa như Tần, Tấn, dẫu ta đánh được mà đất của họ ta không
thể ở được. Xe của họ ta không thể đi được vì các nước Phương Bắc đều là Trấn
chư hầu của Nhà Chu nếu chúng ta lấy đi đất Tấn, đất Tần, thời Nhà Chu sẽ không
để yên cho ta. Còn nước Việt Trung Nguyên lại khác, Cha con Việt Vương Doãn
Thường là quân nội loạn nổi lên cướp Bắc Văn Lang trở thành nước Việt Trung
Nguyên. Không còn quyền quản lý của nhà nước Văn Lang nữa, ai giành lấy được
thời thuộc quyền của người đó. Đất Việt Trung Nguyên sẽ là đất của nước Ngô ta
đó là cái lợi của xả tắc không thể bỏ. Huống chi Việt Trung Nguyên là kẻ thù
lớn với Ngô ta. Ta không diệt Việt chiếm lấy đất Việt thời lời thề trước sân
còn có giá trị gì ?
Phù Sai nín lặng không biết nói thế nào, chỉ đưa mắt nhìn Bá Hi.
Bá Hi nói :
Quan tướng quốc nói thế là lầm! Nếu bảo Ngô Việt ở về mặt thủy tất
phải diệt nhau. Thì Tần - Tấn - Tề - Lỗ cùng ở đất liền mặt bộ. Có lẽ cũng diệt
nhau hay sao ? Nếu bảo Việt là kẻ thù lớn của Tiên Vương nước Ngô không thể tha
được. Vậy thì quan tướng quốc thù sở biết dường. Mà sao không diệt Sở, lại cho
Sở hòa làm gì. Nay vợ chồng Câu Tiễn điều tình nguyện về Ngô. Nếu đem so với Sở
chỉ nộp một công tử Thắng, thời lại càng không giống nhau nữa! tướng quốc làm
điều trung hậu mà muốn cho Đại Vương mang tiếng khắc bạc, trung thần có bao giờ
như thế !
Phù Sai nghe xong lấy làm mừng mà bảo Ngũ Viên rằng: Bá Hi nói
phải, tướng quốc hãy lui về, đợi khi nước Việt cống tiến, ta sẽ chia tặng cho
nhà ngươi.
Ngũ Viên sầm sắc mặt lại thở dài mà than rằng:
Tiếc thay ! ta không nghe lời Bị Ly, mà lại cùng với đứa
gian thần đồng sự !
Ngũ Viên căm tức không thôi, mồm cứ lẫm bẩm, khi lui ra ngoài, bảo
quan đại phu là Vương Tôn Hùng rằng:
Nước Việt nuôi dân trong mười năm, lại dạy dân trong mười năm nữa
chẳng qua chỉ chỉ hai mươi năm, thời cung điện nước Ngô sụp đổ tan tành. Vương
Tôn Hùng cũng chưa lấy làm tin lắm. Ngũ Viên nuốt giận mà trở về hửu dinh. Phù
Sai cho Văn Chủng về báo với Câu Tiễn những gì vua Ngô đã hứa.
Câu Tiễn tuy nghe vua Ngô Phù Sai cho giảng hòa nhưng mạng mình
đều nằm trong tay vua Ngô thở dài mãi không thôi.
Văn Chủng nói :
Vua Thành Thang bị trói ở Hạ Đài. Vua Văn Vương bị tù ở Dĩu Lý.
Tùng Nhĩ nước Tấn bỏ chạy đến Địch. Tiểu Bạch nước Tề bỏ chạy đến Cử. Nhưng kết
cuộc cuối cùng đều làm Vương làm Bá. Cứ xem việc trước mà rút kinh nghiệm việc
sau, biết đâu thế nầy chẳng là phúc!
Câu Tiễn nghe xong lời an ủi của Văn Chủng liền tỉnh táo lại. Câu
Tiễn lại sai Văn Chủng sang tạ ơn:
Phù Sai hỏi:
Bao giờ thời vợ chồng vua Việt theo ta sang Ngô ?
Văn Chủng nói:
Chúa Công tôi đội ơn Đại Vương xá cho, định trở về Kinh Đô thu xếp
những ngọc lụa, trai gái để sang cống xin Đại Vương tạm khoan thời hạn cho. Dẫu
Chúa công tôi đem lòng bất tín thời cũng chẳng trốn được búa rìu sấm sét của
Đại Vương vì Đại Vương đang ở cách Kinh Đô có bao xa chỉ cần hơn ngày đường
thời Kinh Đô Việt Trung Nguyên tan tành mây khói.
Phù Sai nghe cũng hửu lý liền thuận cho. Ước định đến trung tuần
tháng năm thời vợ chồng vua Việt phải sang Ngô. Lại sai Văn Tôn Hùng theo Văn
Chủng thúc vua Việt mau mau khởi trình. Còn quan Thái Tể là Bá Hi thời đóng một
vạn quân ở Ngô Sơn để chờ Vua Việt. Nếu Vua Việt sai hẹn không sang thời sẽ
khởi binh tiêu diệt nước Việt Trung Nguyên. Phù Sai sau đó mấy ngày thời kéo
đại quân về nước.
Câu Tiễn nghe vua Ngô cho người thúc dục mau sang cầu cống làm nô
lệ nước Ngô thời hai hàng nước mắt chảy ròng ròng.
Văn Chủng nói:
Kỳ hạn đã gần đến nơi Chúa Công mau mau trở về Kinh Đô để thu xếp
việc nước, chứ thương khóc làm gì!
Câu Tiễn gạt nước mắt trở về Kinh Đô trông thấy chợ búa làng xốm
vẩn như cũ, mà trai tráng dân chúng thời tiêu điều thời lấy làm hổ thẹn. Việt
Vương Câu Tiễn mời Vương Tôn Hùng nghĩ ở Công Quán rồi thu xép vàng ngọc châu
báu mười mấy xe. Lại chọn mỹ nữ xinh đẹp trong nước được ba trăm năm mươi
người. Định đem ba trăm người nạp cho Phù Sai, còn năm mươi người nạp cho Bá
Hi.
Nói về quân Văn Lang do Hùng Lạc Vương tổng chỉ huy ba đạo
quân ở ba chuyến tuyến Tây Bắc Trung Văn Lang tiến đánh ra Bắc, Trung Trung
BắcVăn Lang tiến đánh ra Bắc, Đông Bắc Trung Văn Lang tiến đánh ra Bắc. Đạo
quân Tây Bắc Trung Văn Lang từ Âu Tây Châu Lê Mạnh Càn thống lĩnh đại quân tiến
đánh Uất Lang Việt Châu. Đạo quân Đông Bắc Trung Văn Lang từ Quang Hải Châu Văn
Bá, Kỳ Duyên thống lĩnh đại quân tiến đánh Lạc Trung Giao Châu. Đạo quân Trung
bắc Văn Lang từ Bạch Lang Châu, Văn Trội thống lĩnh đại quân tiến đánh doanh
trại núi Bà Lộc điền Đức Châu.
Nói về Triệu Công qua đời Triệu Côi lên thay thế chức Trung quân
Nguyên soái, cùng Triệu Chi thống lĩnh đại quân ra sức chống trả quân Văn Lang
tiến ra Bắc đánh chiếm nhiều quận, huyện cũng như tiến đánh Uất Lang Việt Châu.
Cũng cùng lúc ấy. Triệu Quân lên thay thế Triệu Phàn chức Thượng
Quân Nguyên soái, cùng Triệu Hàn, Triệu Anh thống lĩnh quân binh chống lại quân
Văn Lang trong tình thế vô cùng nguy cập. Phạm Đổ Chinh khi ấy cũng đã già con
là Phạm Thụ lên nắm quyền chỉ huy chức Tân quân Nguyên soái cùng Trường Lê, Võ
Bị giao chiến với Văn Trội thắng bại chưa phân rõ thuộc về ai. Được tin báo là
Việt Vương Câu Tiễn bị Ngô đánh bại tuy cầu hòa nhưng vợ chồng Việt Vương Câu
Tiễn phải sang Ngô làm con tin. Triệu Côi, Triệu Quân, Phạm Thụ vô cùng kinh
hãi cấp tốc trở về Kinh Đô Việt Trung Nguyên can gián không nên qua Ngô. Khi ấy
nơi Kinh Đô Vương Tôn Hùng giục giã luôn mãi, triều thần ai nấy đều ứa nước
mắt, cùng lúc ấy Triệu Côi, Triệu Quân, Phạm Thụ cũng vừa về tới nơi can gián
là Chúa Công không nên qua Ngô. Việt Vương Câu tiễn khóc ròng nói nếu bổn Vương
không qua Ngô thời biết làm sao: Khi quân Văn Lang tấn công dồn dập. Nếu Việt
Trung Nguyên bị quân Văn Lang chiếm lại được thời chúng ta cũng hiểu rõ chuyện
gì sẽ xảy ra. Có thể nói là chấm hết. Còn Ta sang làm con tin Ngô còn có huy
vọng Nước Việt Trung Nguyên ta còn có ngày hưng thịnh trở lại, ta đã quyết định
rồi các Khanh không nên khuyên can ta nữa hãy dốc sức mà chiến đấu với quân Văn
Lang. Và chờ ta trở về nước rồi sẽ tính. Triều Thần càng nghe càng khóc.
Văn Chủng nói:
Ngày Xưa vua Thang bị giam ở Hạ Đài, Văn Vương bị giam ở Hửu
Lý, mà về sau làm nên được nghiệp Vương. Tề Hoàng Công phải chạy sang nước Cử,
Tấn Văn Công phải chạy sang nước Dịch mà sau làm nên nghiệp Bá. Xem thế thời
biết cái cảnh khổ sở, chính là trời mở đường cho đấng Vương Bá đó. Chúa Công cứ
vững lòng tin mà theo ý trời. Triều Thần tin nơi Chúa Công, nước Việt Trung Nguyên
ta có ngày hưng thịnh được, can chi mà lo sợ tổn thương ý chí của mình. Ngay
ngày hôm ấy Câu Tiễn làm lễ tế nhà tôn miếu, Vương Tôn Hùng đi trước một ngày,
Câu Tiễn và Phu Nhân đi sau. Triều Thần đưa tiễn đến bến sông Chích Giang. Phạm
Lãi sắp thuyền ở Cố Lăng và bày một tiệc rựu đưa tiễn. Văn Chủng cũng dâng chén
rượu chúc cho Câu Tiễn. Câu Tiễn ngẩng mặt lên trời mà thở dài cầm lấy
chén rượu mà rơi nước mắt, chẳng nói gì cả.
Phạm Lãi nói:
Các bậc Thánh Hiền đời xưa cũng thường gặp những cảnh khổ não,
những điều sỉ nhục không thể chịu được, có phải là chỉ một Chúa Công thôi đâu!
Câu Tiễn nói: Ngày xưa vua Nghiêu dùng hiền thần là Thuấn và Vũ mà
thiên hạ được yên bình, dẫu có thủy tai, cũng không hại người lắm. Nay ta phải
bỏ Việt sang Ngô, giao vận mệnh đất nước Việt Trung Nguyên cho các quan
đại phu, các quan đại phu nghĩ sao cho khỏi phụ lòng ta trông cậy.
Phạm Lãi bảo với triều thần rằng:
Tôi thiết tưởng vua phải lo thời bề tôi nhục. Vua phải nhục thời
bề tôi nên chết. Nay Chúa Công phải lo về nỗi bỏ nước, phải nhục về nỗi sang
Ngô. Bọn ta đây há lại chẳng không có một kẻ hào kiệt vì Chúa Công chia buồn
hay sao?
Các quan đại phu đồng thanh đáp rằng:
Ai cũng là tôi con tùy ý Chúa Công sai khiến.
Câu Tiễn nói:
Các quan đại phu còn có lòng thương ta thì xin cứ tự nói chính
mình, để xem ai có thể đi theo ta, ai có thể ở nhà mà giữ nước được ?
Văn Chủng nói:
Ở nhà để xem xét công việc trong nước thời Phạm Lãi không bằng
tôi. Nhưng đi theo Chúa Công mà lâm cơ ứng biến thời tôi không bằng Phạm Lãi.
Phạm Lãi
nói:
Văn Chủng xét mình đã rõ lắm. Chúa Công nên đem việc nước mà giao
cho, còn như việc nhẫn nhục mà theo Chúa Công để nghĩ cách báo thù thời tôi
không dám từ chối.
Phạm Lãi nói xong thời lần lượt đến các quan đại phu tỏ bày ý
kiến.
Quan Thái Tể là Khổ Thành nói:
Tuyên bố mệnh lệnh để tỏ đức tính của nhà vua, và quyết đoán những
việc khó khăn, khiến cho dân biết yên phận, đó là việc của tôi.
Quan Hành Nhân là Duệ Dung nói:
Đi sứ các nước chư hầu, ứng đối không đến nổi chịu nhục đó là việc
của tôi!
Quan Tư Trực là Hạc Tiến nói:
Vua có điều gì trái lẽ, xin hết can ngăn, dẫu kẻ thân thích nhà
vua cũng không vị nể đó là việc của tôi.
Quan Tư Mã là chư Kế Dĩnh nói :
Bày trận đánh giặc dẫu tên, đao, giáo, mác trùng trùng cũng không
bao giờ chịu lui, vẫn một lòng cố tiến, đó là việc của tôi.
Quan Tư Nông là Cao Như nói:
Dốc lòng khuyên dân cố chăm chỉ làm ăn, nghĩ cách tiết kiệm, đó là
việc của tôi!
Quan Thái Sử là Kế Nghê nói:
Xét trên thiên văn, dưới rõ địa lý, để dò biết sự cát, hung, đó là
việc của tôi!
Các nguyên soái như Triệu Côi, Triệu Quân, Phạm Thụ nói: Dẫu cho
bỏ mạng ngoài trận địa cũng quyết ngăn chặng quân Văn Lang tiến ra bắc đó là
bổn phận của các nguyên soái chúng tôi!
Câu Tiễn nói: Ta dẫu phải sang làm tù ở nước Ngô, nhưng đã có các
quan đại phu, cùng các nguyên soái thống lĩnh quân binh chống trả lại quân Văn
Lang, chăm lo dân chúng dốc lòng cố sứ vì nước nhà, thời ta còn lo gì nữa. Câu
Tiễn từ biệt triều thần cùng Phạm Lãi sang Ngô. Vua tôi tiễn biệt nhau ai nấy
đều ràng rụa nước mắt. Câu Tiễn ngửa mặt lên trời mà than rằng: Cái chết ai
không sợ, nhưng ta đây nghĩ đến cái chết mà trong lòng không sợ chút nào. Nói
xong xuống thuyền đi ngay triều thần sụp lạy ở trên bờ sông. Câu Tiễn
cũng không ngoảnh lại. Câu Tiễn cùng Phu Nhân vin mạn thuyền mà khóc.
Vương Phu Nhân chợt trông thấy đàn Ô Thước đang nhặt tôm ở ven sông bay đi lượn
lại có ý thỏa thích, làm cảm mà làm bài hát rằng:
Đàn chim ( hề ) bay cao
Vẫy vùng ( hề ) đường mây
Thân thiếp ( hề ) vô tội
Trách trời ( hề ) độc thay
Hây hẩy ( hề ) gió mây
Trở về ( hề ) bao ngày
Lòng đau ( hề ) như cắt
Nước mắt ( hề ) vơi đầy
Câu Tiễn nghe thấy Phu Nhân than vãn như vậy thời trong lòng đau
như cắt, nhưng muốn cho Phu Nhân vui lòng cũng gượng cười mà nói rằng: Lông
cánh của ta cũng đã đủ rồi, tất cũng có ngày bay cao, lo gì điều ấy!
**************
PHẦN 28
Câu Tiễn đã đi đến địa giới nước Ngô, sai Phạm Lãi vào yết kiến
quan Thái Tế là nước Ngô là Bá Hi ở Ngô Sơn và dân vàng lụa, trai, gái.
Bá Hi không thấy Văn Chủng liền hỏi Văn Chủng đâu sao
Không thấy đến ?
Phạm Lãi nói:
Văn Chủng còn phải giữ nước cho Chúa Công, nên không đến được. Bá
Hi theo Phạm Lãi đến gặp mặt Câu Tiễn. Câu Tiễn cảm tạ cái ơn giúp cho. Bá Hi
hứa với Câu Tiễn thế nào cũng lập mưu cho Câu Tiễn trở về nước Việt Trung
Nguyên. Câu Tiễn nghe Bá Hi hứa như vậy cũng thấy hơi yên lòng. Bá Hi cho quân
giải Câu Tiễn về Ngô đưa vào nạp Phù Sai. Câu Tiễn trần vai áo. Sụp lạy ở dưới
thềm, Câu Tiễn Phu Nhân cũng theo vào. Phạm Lãi đêm cái đơn kê khai các vật quý
và mỹ nữ dâng lên Phù Sai.
Câu Tiễn sụp lạy hai lạy mà kêu rằng:
Tôi tới nhà vua Việt Trung Nguyên ở miền Đông Hải là Câu Tiễn vì
không tự lượng sức mình để đến nổi đắc tội với Đại Vương. Nay Đại Vương
xá tội lại cho được sang đây hầu hạ, nếu Đại Vương thương tình mà tha cho tội
chết thời lấy làm đội ơn vô cùng!
Phù Sai nói:
Nếu ta nghĩ đến cái thù Tiên Vương ngày xưa thời không thể nào tha
cho nhà ngươi được!
Câu Tiễn lại lạy mà kêu rằng:
Tội tôi thật đáng chết xin Đại Vương thương lại cho!
Bấy giờ Ngũ Viên đứng bên cạnh vua Ngô mắt trợn trừng quắc ra lửa,
tiếng vang như sấm nói với Câu Tiễn rằng:
Con chim bay ở trên mây xanh, ta còn giương cung ra bắn huống chi
nay nó lại đậu ở trước sân! Câu Tiễn vốn là người nham hiểm, bây giờ như con cá
nằm trong hũ, sống chết ở trong tay kẻ nhà bếp. Vậy nên nịnh hót van lạy để cầu
khỏi chết, một mai đắc chí, khác nào như con Hổ về núi, con cá Kình ra biển,
còn làm gì được.
Phù Sai nói:
Ta nghe nói người đã hàng phục mà mình còn giết thì họa đến ba
đời. Ta không phải vì yêu Vua Việt mà không giết, nhưng sợ trái với Đạo Trời.
Bá Hi nói :
Quan tướng quốc chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt một lúc, mà không
hiểu cái lợi yên nước về sau. Đại Vương suy xét nói thế, thật quả là một bậc
nhân giả quân Vương. Ngũ Viên thấy Phù Sai tin lời dụ nịnh của Bá Hi, không
theo lời can của mình, thời căm tức mà lui ra. Phù Sai nhận lễ vật của Câu
Tiễn, rồi sai Vương Tôn Hùng làm một cái nhà đá ở bên cạnh Hạp Lư, giam vợ
chồng Câu Tiễn ở đấy lột áo mão đi mà cho mặt cho mặt quần áo xấu thậm tệ của
những dân đen cho ăn cơn hẩm hôi thiêu lúc đói lúc no khốn khổ. Bắt chăng ngựa
làm đủ những điều cực nhọc. Bá Hi vì nhận quá nhiều của đút lót nên cho người
bí mật đêm thực phẩm ăn no đến cho vợ chồng Câu Tiễn. Mỗi khi Phù Sai đi chơi,
lại bắt Câu Tiễn cầm roi ngựa đi chân đất ở trước xe cho quân binh dân chúng
xem, dân chúng nước Ngô đều trỏ vào Câu Tiễn mà bảo nhau rằng người nô lệ kia
rách rưới cầm roi chăng ngựa đi trước ngựa Đại Vương chính là vua Việt Trung
Nguyên đấy thê thảm quá nhục nhã quá đáng đời cho cái tội không tự lượng sức
của mình. Nếu như tôi thà chết quách còn hơn là sống không ra sống, chết không
ra chết.
Câu Tiễn chỉ cúi đầu mà đi. Câu Tiễn ở nhà đá được hai năm, Phạm
Lãi sớm tối hầu hạ, không rời một bước luôn khuyên Câu Tiễn cố mà luồn cúi nhịn
nhục. Một hôm Phù Sai triệu Câu Tiễn vào yết kiến. Câu Tiễn sụp lạy. Phạm Lãi
đứng ở phía sau.
Phù Sai bảo Phạm Lãi rằng:
Ta nghe nói gái khôn không lấy chồng ở nơi cửa nhà tan nát, danh
hiền không làm quan ở một nước diệt vong. Nay Câu Tiễn vô đạo, nước đã sắp
diệt, vua tôi đều làm nô bộc, bị giam cầm ở trong nhà tù chẳng cũng đã nhục lắm
rùi! Ta muốn tha tội cho nhà ngươi, nếu nhà ngươi biết đổi lỗi, bỏ Việt theo
Ngô thời ta sẽ trọng dụng nhà ngươi đó là bỏ ưu hoạn mà lấy phú quý, nhà ngươi
nghĩ thế nào? Bấy giờ Câu Tiễn đang quỳ phục đưới đất mà khóc, chỉ sợ Phạm Lãi
theo Ngô mất.
Phạm Lãi sụp lạy mà tâu với Phù Sai rằng:
Kẻ đã mất nước, không dám nói hay, tướng đã thua trận không dám
nói mạnh. Tôi là kẻ bất trung bất tín ở nước Việt, không biết giúp Chúa Công
tôi làm điều thiện, để đến nổi đắc tội với Đại Vương. May mà Đại Vương
không giết, cho vua tôi được gần nhau, để vào hầu hạ Đại Vương, thế là tôi đã
được mãn nguyện lắm rồi còn đâu dám mong phú quý.
Phù Sai nói:
Nhà ngươi đã không chịu đổi ý thời lại cứ về nhà đá sống
trong tù ngục.
Phạm Lãi nói: Xin vân mệnh!
Phù Sai đứng dậy trở về cung. Câu Tiễn và Phạm Lãi trở về nhà đá
sống trong cảnh ngục tù. Câu Tiễn ăn mặt tồi tàn, làm việc suốt ngày, cắt cỏ
nuôi ngựa. Câu Tiễn Phu Nhân cũng ăn mặt tồi tàn rách rưới, đi gánh nước để
quét dọn phân ngựa. Còn Phạm Lại thời đi kiếm củi để nấu củ pha lẫn ít gạo mà
ăn sống qua ngày. Vợ Chồng Câu Tiễn cũng như Phạm Lãi mặt mũi gầy gò chẳng khá
gì những người dân đen đói khổ. Phù Sai trong suốt thời gian giam giữ Câu Tiễn,
Phạm Lãi cho người theo dõi thấy vua tôi nước Việt cực khổ lao động suốt ngày
mà không đủ no, áo quần rách rưới cũng không thấy buồn rầu chút nào mới cho là
đồ vô chí hằng chi bại dưới tay ta cũng phải, người như thế mà làm nên trò
trống gì. Phù Sai không cần bận tâm nghĩ đến nữa.
Một hôm Phù Sai lên Cô Tô đài trông thấy vợ chồng Câu Tiễn ngồi ở
cạnh đống phân ngựa chẳng khác gì dân đen tầm thường, Phạm Lãi cầm chỗi quét
rác đứng hầu một bên, mới ngoảnh lại bảo Bá Hi rằng. Câu Tiễn tuy là vua một
nước, nhưng là đồ vô chí không có chí Hùng Bá, cũng là người tầm thường. Phạm
Lãi chẳng qua là kẻ học trò. Nhưng không bỏ khi vua hoạn nạn, mà còn giữ được
lễ vua tôi ta rất có lòng kính trọng.
Bá Hi nói:
Chẳng những đáng kính phục, thực cũng đáng thương.
Phù Sai nói:
Bắc Văn Lang Việt Trung
Nguyên có lòng trung hiếu quật cường là do truyền thống con Rồng cháu Tiên ung
đúc tạo nên, nên rất khó đánh chiếm hàn phục được. Nhưng theo ta thấy thời
không đúng sự thật. Câu Tiễn là vua một nước đứng đầu dân chúng triều thần,
cũng chỉ là kẻ thamsống sợ chết cúi đầu lạy dạ khiếp sợ trước oai linh của nước Ngô
Ta. Cũng như lời quan Thái Tế nói. Ta đây nghĩ cũng thương tình nếu hắn biết
lỗi thời có nên tha không?
Bá Hi nói Đại Vương mở lượng hải hà mà thương kẻ cùng khốn gia ân
cho Vua Việt chắc là Vua Việt cũng biết đền ơn. Xin Đại Vương phải tự quyết
đoán.
Phù Sai nói:
Ta sẽ chọn ngày tốt để tha cho Vua Việt về nước. Bá Hi mật cho
người báo tin cho Câu Tiễn biết. Câu Tiễn mừng lắm nói với Phạm Lãi.
Phạm Lãi nói:
Để thần bói một quẻ, xem lành dữ thế nào. Phạm Lãi bói xong nói
với Câu Tiễn rằng:
Dẫu có tin như vậy, cũng chưa nên lấy làm mừng.
Câu Tiễn nghe nói có ý làm buồn. Ngũ Viên nghe tin Phù Sai sắp tha
Câu Tiễn, vội vàng vào yết kiến Phù Sai mà tâu rằng:
Ngày xưa Vua Kiệt giam vua Thành Thang mà không chết. Vua Trụ giam
Văn Vương mà không giết. Đến lúc đạo trời xoay chuyển. Chuyển họa thành phúc,
chuyển bại thành thắng, chuyển nhục thành vinh, thời Vua Kiệt bị Vua Thang đuổi.
Nhà Thương bị nhà Chu diệt. Nay Đại Vương giam Câu Tiễn mà không giết, tôi e
rằng sắp có họa như Nhà Hạ cũng như Nhà Thương.
Phù Sai nghe Ngũ Viên nói cũng có lý vì gương lịch sữ vẩn sờ sờ
trước mắt, Phù Sai có ý muốn giết Câu Tiễn bèn sai người triệu Câu Tiễn vào. Bá
Hi lại báo trước cho Câu Tiễn biết là Phù Sai định giết Câu Tiễn theo lời đề
nghị của Ngũ Viên, Câu Tiễn kinh sợ lại nói với Phạm Lãi.
Phạm Lãi nói:
Chúa Công đừng sợ! Vua Ngô đã giam Chúa Công đã ba năm nay. Trong
ba năm còn không nở xuống tay, huống chi bây giờ, Chúa Công cứ đi không ngại!
Câu Tiễn nói:
Ta chịu ẩn nhẫn bấy lâu nay không đến nỗi chết đều là nhờ mưu kế
của quan đại phu cả.
Câu Tiễn lấy lại tự tin vào thành yết kiến Phù Sai. Phải chầu chực
quỳ lạy đến ba ngày mà không thấy Phù Sai ra thượng triều. Bá Hi ở trong cung
ra, phụng mệnh Phù Sai truyền cho Câu Tiễn về nhà đá. Câu Tiễn lấy làm lạ liền
hỏi.
Bá Hi nói:
Đại Vương nghe lời Ngũ Viên, định đem giết Ông vậy, nên triệu Ông
đến để giết. Cũng may gặp lúc Đại Vương bị cảm không thể dậy được. Tôi vào thăm
bệnh nhân tâu với Đại Vương rằng:
Người bệnh muốn cầu yên thời phải làm phúc nay vua Việt đang chầu
chực ở đây, chỉ đợi ngày chịu chết, oán khí xông lên đến Trời. Đại Vương nên
tạm tha cho y trở về nhà đá, đợi khi khỏi bệnh rồi sẽ định liệu! vì nghe lời
tôi mà Đại Vương tạm tha cho ngài về nhà đá quyết định sinh mạng của ngài sau.
Câu Tiễn cảm tạ không xiết, ở nhà đá được ba tháng Câu Tiễn nghe
tin Phù Sai vẩn chưa khỏi bệnh, mới bảo Phạm Lãi bói một quẻ. Phạm Lãi bói xong
bảo Câu Tiễn rằng:
Phù Sai không chết ngày tỵ thời bớt, đến ngày nhâm thời khỏi. Đây
là cơ hội Đại Vương Chúa Công cố xin vào thăm. Khi được vào thăm Đại Vương cố
tình nếm phân cho Phù Sai để đoán ra bệnh rồi nói ngày khỏi bệnh, đến kỳ khỏi
bệnh đúng như lời nói của Chúa Công Đại Vương thời tất nhiên y cảm ơn mà tha
cho Đại Vương.
Câu Tiễn ứa nước mắt mà nói rằng :
Ta đây dẫu chẳng ra gì nhưng cũng là một Ông Vua không nhẽ lại nếm
phân cho người chịu nhục đến thế sao?
Phạm Lãi nói:
Ngày xưa Vua Trụ giam Văn Vương ở Dữu Lý. Vua Trụ giết con Văn
Vương là Bá Ấp Khảo rồi ướp thịt đưa cho Văn Vương ăn. Thế mà Văn Vương cố nén
đau đớn mà ăn thịt con. Chúa Công muốn thành đại sự thời cần chi để ý những
điều nhỏ mọn. Vua Ngô lòng thương người như đàn bà, mà không có lòng quả quyết
như kẻ trượng phu. Đã toan tha rồi đổi ý. Nếu ta không làm thế thời làm gì qua
mặt được Phù Sai, làm sao Vua Ngô rũ lòng thương mà tha cho chúng ta, nhờ sự
nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục cao chúng ta mới có thể qua khỏi kiếp nạn nầy.
Câu Tiễn tức khắc sai Phạm Lãi đến nói với Bá Hi rằng Chúa Công tôi nghe nói
bệnh tình Đại Vương không thiên giảm, Chúa Công tôi lo lắng ăn ngủ không yên
nên sai tôi đến cầu xin ngài cho Chúa Công tôi theo ngài vào thăm Đại Vương, để
tỏ chút tình thành kính.
Bá Hi suy nghĩ một giây lác cho đó là dịp may có thể cứu sống được
Câu Tiễn thời cái lợi lớn về sau một sức mà thừa hưởng.
Bá Hi nói:
Câu Tiễn ngài có lòng tốt, để tôi xin chuyển tấu.
Bá Hi vào yết kiến Phù Sai, bày tỏ cái tình Câu Tiễn nhớ mến, xin
vào thăm bệnh. Phù Sai đang khi cơn bệnh trầm trọng, nghĩ thương tình Câu Tiễn
mà cho vào. Bá Hi đưa Câu Tiễn vào thăm Phù Sai. Phù Sai trừng mất nhìn mà bảo
Rằng:
Câu Tiễn cũng vào thăm ta đó à?
Câu Tiễn sụp lạy mà tâu rằng:
Kẻ bề tôi ở trong tù nghe nói Đại Vương Long Thể bất hòa, thật là
nát gan héo ruột chỉ mong được trông thấy mặt Rồng mà không biết phải làm thế
nào! Câu Tiễn nói chưa dứt lời thời Phù Sai đau bụng muốn đi ngoài, mới
lấy tay xua bảo Câu Tiễn ra.
Câu Tiễn nói:
Khi Tôi ở đông hải có học người y sư, học được cách xem phân biết
bệnh chính xác, bệnh chóng khỏi hay kéo dài trầm trọng. Nhờ thế mà bốc thuốc
chính xác chữa trị khỏi bệnh ngay. Câu Tiễn nói xong chấp tay đứng ở cửa sổ.
Nội thị đưa cái thùng đến cạnh gường nằm, rồi vực Phù Sai dậy đi ngoài. Phù Sai
đi ngoài xong rồi nội thị bưng cái tùng đưa ra ngoài cửa. Câu Tiễn mở nắp thùng
ra, thò tay bốc phân rồi quỳ xuống mà nếm. Mọi người xung quanh đều bịt cả mũi.
Câu Tiễn lại vào sụp lạy Phù Sai mà tâu rằng:
Kẻ tù nầy xin chúc mừng Đại Vương, bệnh Đại Vương đến ngày Kỷ Tị
thì bớt, sang tháng ba về ngày Nhâm Thân thời khỏi hẳn không cần thuốc thang gì
cả. Đó cũng là nhờ cái đức của Đại Vương trùm bá thiên hạ mà khỏi bệnh. Phù Sai
nghe Câu Tiễn quả quyết về bệnh tình mình như vậy liền hỏi. Nhà ngươi căn cứ
vào đâu mà quyết đoán bệnh tình của ta như vậy?
Câu Tiễn nói:
Tôi thường nghe y sư chỉ dạy phân là gốc của vị, hể thuận thời khí
thời vô bệnh mà sống lâu, hể trái thời khí thời phát bệnh có khi dẫn đến cái
chết. Nay kẻ tù nầy nếm phân Đại Vương thấy vị đắng và chua, chính hợp cái thời
khí Xuân, Hạ phát sinh biến động trong cơ thể chỉ làm tăng tuổi thọ Đại Vương
mà thôi. Nên bề tôi mới quả quyết bệnh tình Đại Vương chóng khỏi không cần
thuốc thang như vậy. Phù Sai nghe Câu Tiễn nói vô cùng bùi tai.
Phù Sai bằng lòng nói rằng:
Câu Tiễn nhân đức thay! thần tử đối với quân phụ, ta chưa thấy ai
chịu nếm phân đoán bệnh bao giờ!
Bấy giờ nhân Bá Hi đứng cạnh Phù Sai bèn hỏi rằng:
Quan Thái Tế có nếm được không?
Bá Hi lắc đầu nói:
Thần thật rất yêu Đại Vương, nhưng việc ấy Thần không làm nổi.
Phù Sai nói:
Chẳng những quan Thái Tể không làm nổi, dẫu cho Thế Tử của Ta cũng
không thể làm được. Phù Sai truyền tha Câu Tiễn không bắc về nhà đá nữa, được
tùy tiện tìm chỗ ở, đợi khi Phù Sai khỏi bệnh sẽ cho về nước. Câu Tiễn lạy tạ
lui ra, từ đó về sau Câu Tiễn tìm được chỗ ở trong nhà dân, nhưng vẫn chăm chỉ
giữ việc nuôi ngựa như trước, Phù Sai quả nhiên khỏi bệnh đúng như lời Câu Tiễn
nói.
**************
PHẦN 29
Lại nói về Phù Sai cho là Câu Tiễn trung thành với mình, nên khi
đã khỏi bệnh liền truyền bày tiệc ở trên vân đài, cho Câu Tiễn vào dự yến. Câu
Tiễn giả cách không biết, vẫn mặc áo tù mà đến. Phù Sai trông thấy truyền Câu
Tiễn tắm gội và ban cho mũ áo. Câu Tiễn hai ba lần từ tạ rồi mới dám nhận. Câu Tiễn
thay áo mũ xong lại vào lại vào sụp lạy Phù Sai, Phù Sai vội vàng đỡ dậy
và hạ lệnh rằng.
Vua Việt là người nhân đức không nên làm nhục lâu, ta định tha tội
cho về nước nay nên tiếp đãi tử tế. Các Quan đại phu nước Ngô đều vái nhường
Câu Tiễn mời Câu Tiễn ngồi, rồi ngồi cả hai bên cạnh. Ngũ Viên thấy Phù Sai
quên hẳn thù xưa, trong lòng căm tức không chịu ngồi vào liền quay trở ra.
Bá Hi nói:
Đại Vương ta lấy cái lòng một người nhân đức. Mà tha cái tội của
người nhân đức. Tôi nghe nói “ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”
ngày nay ai là nhân thời ngồi lại, ai bất nhân thời bỏ đi. Quan tướng quốc là
người cương dũng cho nên thẹn không dám ngồi, chớ sao?
Phù Sai cười mà nói:
Quan Thái Tể nói phải lắm:
Rượu đã ba tuần, Phạm Lãi và Câu Tiễn đều đứng dậy dâng chén chúc
thọ Phù Sai. Phù Sai bằng lòng lắm ngày hôm ấy uống rượu thật say. Rồi sai
Vương Tôn Hùng đưa Câu Tiễn ra công quán, đợi trong ba ngày nữa sẽ đưa về nước.
Sáng hôm sau Ngũ Viên vào tâu với Phù Sai rằng:
Hôm qua Đại Vương lấy khách lễ mà đãi kẻ thù là nghĩa thế nào? Câu
Tiễn trong bụng như hổ báo, lang sói mà mặt ngoài giả cách cung kính. Đại Vương
thấy y nói những lời xu nịnh, chẳng nghĩ đến tai họa về sau ư? Bỏ lời
trung trực mà nghe kẻ gièm pha, nghĩ đều nhân nhỏ mà nuôi kẻ thù lớn, khác nào
như buông nắm lông ở trên lò than mà mong mỏi cháy. Ném quả trứng ở dưới cân
nặng mà muốn được toàn thời làm sao?
Phù Sai nghe Ngũ Viên nói thời không bằng lòng nói rằng:
Ta ốm trong ba tháng, quan tướng quốc chẳng thấy hỏi thăm được một
câu, thế là quân tướng quốc bất trung, lại chẳng thấy quan tướng quốc làm quà
cho cái gì, thế là quan tướng quốc bất nhân. Làm bề tôi mà bất trung và bất
nhân thời còn dùng được việc gì nữa. Câu Tiễn bỏ nước mà sang đây, đem của cải
đến dâng nạp, đem thân làm tôi tớ đó là điều trung khi ta có bệnh. Lại chịu nếm
phân ta mà lòng không oán giận, đó là điều nhân. Nếu ta theo ý riêng của quan
tướng quốc mà giết kẻ thiện sĩ ấy thời Trời nào còn giúp ta nữa!
Ngũ Viên nói:
Sao Đại Vương lại nghĩ lầm như vậy? Con Hổ thu mình lại thời tất
là chực vồ con mồi. Con Cáo mà rụt cổ lại thời tất định cắn một cú chí tử. Vua
Việt lâm vào tình thế buộc mới sang tùng phục Ngô ta, dẫu trong lòng oán hận
cũng không dám để lộ ra ngoài. Đại Vương nên hiểu người xưa thường nói dò sông
dò biển dễ dò, nhưng nào ai lấy thước mà đo lòng người. Bây giờ y cúi xuống mà
nếm đống phân của Đại Vương, chắc đâu không có một ngày kia ngẩng lên mà ăn gan
ruột của Đại Vương. Vì nước Việt Trung Nguyên tìm năng con người cũng như kinh
tế rất mạnh Đại Vương không suy xét kỷ mà mắc mưu tất có ngày bị hại.
Phù Sai nói:
Quan tướng quốc chớ nói nữa, ý ta đã quyết định rồi!
Ngũ Viên biết không thể can được ấm ức mà lui ra.
Đến ngày thứ ba, Phù Sai lại bày tiệc ở ngoài Sà Môn để tiễn Câu
Tiễn. Các quan đều dâng chén rượu tiễn chân. Chỉ có Ngũ Viên không đến dự Phù
Sai bảo Câu Tiễn rằng.
Ta tha cho nhà Vua về nước, nhà Vua nên nhớ ơn nước Ngô mà cống
nạp cho phải lễ, chớ đem lòng thù oán.
Câu Tiễn sụp lạy mà nói rằng:
Đại Vương thương tôi là kẻ còn non dại không tự lượng sức mình làm
những điều ngu xuẫn lại biết ăn năng, nên mới tha cho được sống mà về nước. Tôi
xin đời đời không dám quên ơn. Trời cao thăm thẳm soi xét lòng tôi, nếu tôi phụ
Ngô thời Trời sẽ giáng họa.
Phù Sai nói Quân Tử không sai lời! Thôi nhà Vua lên đường nên gắng
hết lòng hàng năm cống nạp cho nước Ngô Câu Tiễn sụp lạy, nước mắt đầm đìa, làm
ra vẻ quyến luyến. Phù Sai thân hành vực Câu Tiễn lên xe. Phạm Lãi cầm cương
xe. Câu Tiễn Phu Nhân sụp lạy tạ ơn rồi cùng lên xe đi về phía Nam.
Bấy giờ Phương Nam là đời thứ 14 Hạ Hùng Vương Hùng Ánh
Vương, Chân Nhân Lang.cPhương Bắc bấy giờ là năm thứ 23 đời Chu Kính Vương.
Câu Tiễn về đến Chiết Giang, trông thấy phong cảnh khác xưa, thở
dài mà nói rằng:
Ta vẫn tưởng phải từ biệt trăm họ Bách Việt Trung Nguyên, bỏ thân
nơi cõi khác ngờ đâu nay được trở về nước giữ lấy việc cúng tế. Câu Tiễn ngoảnh
lại Phu Nhân mà khóc. Các người xung quanh cũng đều cảm động mà khóc cả. Văn
Chủng đem triều thần và dân trong Kinh Đô ra đón tận ở bến Triết Giang trong
tiếng reo hò dậy đất. Câu Tiễn sai Phạm Lãi bói xem ngày nào tốt để vào thành.
Phạm Lãi bấm đốt ngón tay rồi nói với Câu Tiễn rằng ngày mai rất tốt Chúa Công
nên đi mau cho kịp. Câu Tiễn tức khắc giục ngựa trở về Kinh Đô. Muốn ghi sâu
trong cái nhục ở Cối Kê, Câu Tiễn muốn xây đắp thành Thiên Đô ở đó luôn luôn
nhớ tới mối thù bằng giao hẳn việc ấy cho Phạm Lãi lo liệu. Phạm Lãi xem thiên
văn, xét địa lý, lập ra một cái thành mới bao bọc núi Cối Kê. Phía Tây Bắc Phạm
Lãi cho lập lầu Phi Dục ở núi ngọa tang làm nơi Thiên Môn. Đông Nam lập Lâu
Thạch Đậu để làm địa bộ. Còn mặt Tây Bắc thời để không. Và nói phao lên rằng đã
thần phục nước Ngô, không dám lấp đường cống hiến, cống nạp cho nước Ngô. Nhưng
kỳ thực là để tiện đường tiến đánh quân Ngô mai sau. Khi thành đắp xong, bổng
thấy trong thành mọc lên một quả núi chu vi mấy dặm như hình con quỷ, cây cỏ
mọc lên rậm rạp. Có người trông quả núi ấy giống như là núi Đông Vũ ở xứ Lang
Gia, Nơi con Thuồng Luồng Ngư Tinh thường xất hiện không biết là vì sao lại bay
đến đây được.
Phạm Lãi nói với Câu Tiễn rằng:
Tôi đắp cái thành nầy ứng với Thiên Tượng cho nên quả núi hình con
quỷ ấy hiện ra. Đó là điềm phúc nước Việt Trung Nguyên ta có Quỷ thần phù hộ
che chở điềm báo trước Chúa Công làm nên nghiệp Bá. Câu Tiễn nghe xong lấy làm
mừng lắm mới đặc tên núi ấy là Quái Sơn cũng gọi là Phi Lai Sơn. Câu Tiễn sang
Thiên Đô ở đấy.
Câu tiễn bảo Phạm Lãi rằng:
Ta thực thực thất đức, để đến nổi nước nhà suy đốn, phải đêm thân
đi hầu hạ người khác, nếu không có quan tướng quốc và các quan đại phu, cũng
như các nguyên soái trấn giữ phía nam bảo vệ nước Việt Trung Nguyên thời nước
Việt Trung nguyên là sao trụ vững phát triển hùng mạnh như thế nầy.
Phạm Lãi nói:
Đó là nhờ hồng phúc của Chúa Công, chứ chúng thần có công gì.
Nhưng xin Chúa Công chớ lúc nào quên cái nhục ở nhà đá thời mới có cơ báo thù
được nước Ngô.
Câu Tiễn nói:
Xin vân lời dạy bảo!
Lúc bấy giờ nước Việt Trung Nguyên quốc chính giao cho Văn Chủng,
quân chính giao cho Phạm Lãi. Câu tiễn luôn tôn trọng hiền tài, kính lão,
thương nghèo, trăm họ đều bằng lòng. Câu Tiễn từ khi nếm phân, thành ra bệnh
hôi miệng. Phạm Lãi biết có một thứ rau ở một quả núi về phía Bắc thành, tên
gọi là rau trấp, rau ấy ăn được nhưng có mùi hôi nên mới sai người đi hái đem
về, để cả triều cùng ăn, cho lẫn mùi hôi nhưng có mùi hôi. Sau người ta gọi tên
núi ấy là núi Trấp Sơn. Câu Tiễn muốn gấp báo thù, mới cố chăm chỉ suốt ngày
suốt đêm, khi buồn ngủ thời lấy cỏ lục mà đánh vào mắt, chân lạnh muốn rụt lại
thời lấy nước vào. Mùa đông thường ngồi gần nước băng, mùa hạ thường ngồi gần
đống lửa, xếp củi mà nằm lên trên, chớ không nằm gường nệm. Lại treo một quả
mật ở chỗ ngồi, thỉnh thoảng lại nếm một ít. Câu Tiễn đêm nào cũng khóc sụt
sùi, khóc chán rồi thở dài. Lại luôn luôn nhắc hai tiếng “ Cối kê ” Câu Tiễn
thấy sau khi đất suy bại trai trán chết vô số kể, dân số giảm kém mới hạ lệnh
cấm con trai không được lấy vợ già. Ông già không được lấy vợ trẻ. Con
gái mười bảy tuổi không lấy chồng, con trai hai mươi tuổi không lấy vợ thời bắc
tội cha mẹ, đàn bà sắp chửa đẻ đều phải trình quan. Để quan cho thầy thuốc đến
coi sóc. Sinh con trai thời thưởng cho hồ rượu và con chó. Ai sinh con gái thời
thưởng cho hồ rượu và con lợn. Ai sinh ba con thời quan nuôi hộ hai, ai sanh
hai thời quan nuôi hộ một. Hể có ai chết thời quan thân hành đi đưa đám và
thương khóc. Câu Tiễn mỗi khi đi đâu thời cũng đem đồ ăn để ở trong xe hể gặp trẻ
con thời cho ăn và hỏi tên họ.
Đến mùa làm ruộng Câu Tiễn cũng vác cày đi cày. Phu Nhân cũng chăm
việc dệt cửi, cùng chia sự lao khổ cùng với dân. Trong bảy năm Câu Tiễn không
thu thế của dân, ăn mặc rất là tiết kiệm không mặc hai màu, khiêm tốn đối với
người hiền, cùng chịu khó với trăm họ. Thế mà chẳng tháng nào Câu Tiễn không
sai sứ sang cống hiến cho nước Ngô. Lại người vào núi hái dây cát dệt làm vải
nhỏ, đem dâng Phù Sai, nhưng chưa kịp dân Phù Sai khen lòng trung thành của Câu
Tiễn. Bằng sai người trả lại trả lại đất phía đông Câu Dụng phía Tây Hề, Lý.
Phía nam Cô Việt. Phía Bắc bình quyên cả thảy hơn tám trăm dặm mà quân Ngô đã
chiếm đóng. Từ khi Câu Tiễn trở về nước Việt Trung Nguyên, xây dựng Thiên Đô ở
Cối Kê, ra sức trong bảy năm cũng cố lực lượng vỗ về binh sĩ, chăm lo dân chúng
có thể nói là hùng mạnh, nhân cơ hội Ngô trả đất tiến quân đánh Ngô để rửa mối
hận thù.
Đại Phu Phùng Đồng can rằng:
Tuy nước ta phồn thịnh no đủ, nhưng thế lực nước Ngô còn mạnh lắm
chỉ cần phát hiện Chúa Công tiến quân chinh phạt Ngô. Thế nào Ngô cũng tức giận
đem quân tiến đánh trong khi thế lực của ta chưa nắm chắc phần thắng, thời tai
nạn cho nước Việt ta không sao tránh khỏi. Vả lại con Chim Ưng muốn tấn công
thời nói phải biết dấu mình không cho con mồi biết thời hiệu quả mới đạt đến
đỉnh cao. Nay quân Ngô sắp đánh Tề và Tấn. Ngô tuy nổi danh thiên hạ, nhưng
thực chỉ cốt làm tổn hại uy danh Nhà Chu. Hiện nay đối với nước Việt Trung
Nguyên ta, không gì bằng biết đợi thời cơ, âm thầm liên kết với nước Tề, thân với
nước Sở, khi thời cơ đã đến, ba nước đánh Ngô thời nhất định tiêu diệt được
Ngô. Câu Tiễn cho lời nói Phù Đồng là có lý cận thận ẩn kín ý niệm đánh Ngô, mà
tiếp tục làm cho Ngô tin mình. Câu Tiễn sai người đem vải cát mười vạn tấm, cam
mật một trăm vò. Áo cầu lông chồn năm đôi, tre nứa mười thuyền sang dân Phù Sai
để tạ cái ơn đã trả lại đất đai. Ngũ Viên nghe nói liền cáo ốm không vào triều.
Phù Sai thấy Câu Tiễn một lòng thuần phục không những trả đất chiếm đóng cho
Câu Tiễn mà còn tin lời Bá Hi.
Một hôm Phù Sai hỏi Bá Hi rằng:
Ngày nay trong nước thái bình ta muốn mở thêm cung thất để lấy chỗ
vui chơi, nên làm tại chỗ nào ?
Bá Hi nói gần Đô Thành ta, đài cao cảnh đẹp, còn đâu bằng Cô Tô,
nhưng cái đài của Vua trước dựng lên chưa được tráng lệ lắm, Đại Vương nên sửa
lại cái đài ấy, khiến cho cao có thể trông thấy trăm dặm, rộng có thể dung được
nghìn người. Rồi hợp những ca đồng vũ nử ở đấy, thời thật là một sự khoái lạc
đệ nhất trần gian. Phù Sai cho khen phải, liền trao giải, tìm kiếm những cây gỗ
quý Văn Chủng nghe tin vào nói với Câu Tiễn rằng:
Thần nghe nói “ con chim bay ở trên mây cao, chỉ chết vì miếng ăn
tốt. Con cá lặn dưới vực sâu, chỉ chết về miếng mồi thơm” Nay Chúa Công muốn
báo thù Ngô thời phải xem Ngô thích cái gì mới có thể trị nổi.
Câu Tiễn nói:
Dẫu tìm được điều họ thích, nhưng làm thế nào mà trị nổi?
Thần có nghĩ cách phá Ngô cả thảy được bảy kế.
1- Chịu tốn của làm cho nước Ngô bằng
lòng.
2- Lấy giá đắc mua thóc làm cho Ngô thiếu lương thực.
3- Đem mỹ nữ sang dâng để làm cho vua Ngô mê hoặc.
4- Đem thợ khéo, gỗ tốt sang đem dâng, để Ngô làm cung thất
tốn hại tiền của.
5- Dùng kẻ mưu thần để làm cho nước loạn.
6- Làm cho vua Ngô hại trung thần rơi vào cảnh thế cô.
7- Tích của luyện quân, đợi khi địch suy yếu.
Câu Tiễn nói:
Quan tướng quốc nói phải lắm, nhưng nên dùng kế nào được? Văn
Chủng nói nay Ngô sửa lại đài Cô Tô, ta nên tìm cây lớn gỗ quý đem dâng. Câu
Tiễn liền sai hơn ba nghìn thợ mộc vào rừng tìm gỗ, tìm hơn một năm mà chưa mà
chưa được cây nào thật tốt. Thợ mọc đều đêm lòng oán hận, đêm ngày than oán với
nhau. Một hôm đang đêm bổng cuồng phong nổi lên núi rừng rung chuyển một con
quỷ Ngư Tinh xuất hiện sau đó thời trời quang mây tạnh xuất hiện hai Thần Mộc
to hai người ôm, cao năm mươi tầm, một cây ở phía Nam núi, gọi là cây tử. Một
cây ở phía Bắc núi, gọi là cây nam. Thợ mộc kinh ngạc cho người vội vàng về báo
với Câu Tiễn, triều thần chúc mừng Câu Tiễn rằng.
Lòng thành Chúa Công đã cảm động đến lòng trời, cho nên trời sanh
gỗ thần để giúp Chúa Công. Câu Tiễn mừng lắm thân hành đến làm lễ tế trời, cho
thợ mộc đốn xuống sai đêm bào láng và dùng thuốc xanh, đỏ vẽ hình rồng rắn, sai
Văn Chủng đưa sang Ngô dâng lên cho Phù Sai. Phù Sai thấy gỗ to đẹp lạ thường,
xiết bao mừng rỡ.
Ngũ Viên can rằng:
Ngày xưa vua Kiệt làm linh đài, vua Trụ làm lộc đài khổ dân hao
của đến đổi mất nước. Câu Tiễn muốn hại ta, nên đem dâng gỗ nầy đó.
Phù Sai nói:
Câu Tiễn được cây gỗ quý nầy, không đễ mà dùng, lại đem dâng ta,
thế là lòng tử tế sao ta lại từ chối.
Nước Văn Lang chia đôi Nam Bắc, Bách Việt tương tàn làm suy kiệt
nước Văn Lang, Đồng Bào khốn khổ lầm than. Bắc Văn Lang đã rơi về tay quân loạn
tặc phản loạn trở thành nước Việt Trung Nguyên. Việt Trung Nguyên không những
giàu có về lúa gạo, mà còn giàu có về mọi mặc. Thủy Sản, sơn hào, hải vị, gái
đẹp vàng bạc, ngọc ngà, châu báu chẳng thiếu chi. Là miếng mồi béo bở, không
những nước Ngô, mà còn nhiều nước Phương Bắc thời Nhà Chu lúc nào cũng thèm
thuồng dòm ngó. Vì thế Việt Trung Nguyên không lúc nào yên , trong thời các Vua
Hùng đánh ra đòi lại Bắc Văn Lang. Ngoài thời các nước Phương Bắc dòm ngó
thôn tính chẳng hạn như nước Ngô.
**************
PHẦN 30
Phù Sai thấy gỗ quý thời mừng lắm, Ngũ Viên nói gì cũng không
nghe, truyền đem hai cây gỗ quý để sửa đài Cô Tô. Trong năm năm mới làm xong
đài cao ba trăm trượng, rộng tám mươi tư trượng, trèo lên thời trông suốt được
hai trăm dặm. Nguyên trước đó có con đường chín khúc đi thẳng lên núi, bây giờ
làm rộng thêm ra. Trăm họ phải ngày đêm phục dịch, lao lực mà chết rất nhiều.
Câu Tiễn nghe tin báo Văn Chủng rằng:
Kế sách dâng gỗ tốt cho hắn làm cung thất, tốn hại tiền của kế ấy
đã thành rồi. Nay trên đài cao tất nhiên phải tuyển ca nhi vũ nữ, nếu ta không
tìm được người tuyệt sắc thì làm sao làm cho hắn mê hoặc được. Quan tướng quốc
hãy bàn mưu giúp ta.
Văn Chủng nói việc gì cũng bỡi trời cả. Trời đã sanh thần mộc gúp
Chúa Công thời lo gì không có mỹ nữ tuyệt sắc. Nhưng nếu ta sục tìm thời dân
tình náo động. Thần nghĩ được một kế có thể xem mặt hết con gái trong nước tùy
ý Chúa Công kén chọn.
Văn Chủng hiến kế rằng:
Chúa Công phái một trăm nội thị đi lẫn với Thầy Tướng giả cách đi
xem tướng số khắp trong đất nước, thấy mỹ nữ thời ghi lấy tên và chỗ ở. Dùng
cách ấy chọn thời lo gì không có người! Câu Tiễn theo kế ấy, mới trong nữa năm
mà đã tuyển chọn được hai nghìn mĩ nữ. Câu Tiễn sai chọn lại được hai người đẹp
nhất, truyền vẽ tranh đêm dân Phù Sai. Hai người ấy là Tây Thi và Trịnh Đán.
Tây Thi là con một người kiếm củi ở núi Trữ La. Trữ La có hai thôn, Đông Thôn
và Tây Thôn, dân chúng phần đông là họ Thị. Người con gái ở Thôn Tây gọi là Tây
Thi. Trịnh Đán cũng ở Tây Thôn, làng giềng với Tây Thi. Nhà lại gần sông hai
người ngày nào cũng gặp nhau ra đập sợi ở bến sông phải nói là tuyệt sắc giai
nhân sắc nước hương trời, mặt hoa da phấn, đúng là trong ngọc trắng ngà, da như
tuyết, mắt như hồ thu êm dịu trong suốt, người như hoa xuân đại ngàn, lưng ong,
mông nở, ngực đầy, dáng đi uyển chuyển, đúng là hoa nhường nguyệt, chim sa cá
lặng khuynh quốc nghiêng thành, ai nhìn thấy cũng mê ngây ngất tâm hồn.
Câu Tiễn sai Phạm Lãi đem một trăm ném vàng đón về đón hai cô gái đẹp như tiên
nữ giáng trần. Phạm Lãi vừa nhìn thấy Tây Thi, Trịnh Đáng thời tâm hồn xao
xuyến càng nhìn càng thấy đẹp đúng là báu vật chốn nhân gian. Phạm Lãi cho ăn
mặt đồ the lụa, ngồi xe có màn phủ mỗi khi hai mĩ nữ bước lên xe xuống xe đều
bừng lên rực sáng cả một khung trời, tiến đồn lan nhanh, người trong nước ai
cũng muốn xem mặt, tranh nhau đón theo dọc đường không biết bao nhiêu mà kể.
Phạm Lãi để Tây Thi và Trịnh Đán ở hội quán rồi truyền dụ rằng ai muốn xem mặt
hai tuyệt đại mỹ nhân, thời phải nộp một đồng tiền. Chỉ trong một lúc đồng tiền
đầy mấy thùng lớn. Hai mỹ nữ đi lên lầu đứng tựa vào bao lơn, ở dưới trông lên
chẳng khác nào hai tiên nữ giáng trần đứng trên không. Tây Thi và Trịnh Đán ở
lại ngoại thành, tiền thu được không biết bao nhiêu mà kể, đều nộp vào kho cả.
Câu Tiễn cho hai mỹ nữ ở riêng tại Thổ Thành, rồi sai một nhạc sư già dạy cho
hát múa, khi nào thành nghề sẽ sang tiến Phù Sai. Bấy giờ Phương bắc là đời Chu
Kính Vương. Phương Nam là thời Hùng ánh Vương, Chân Nhân Lang. Nước Việt Trung
Nguyên Việt Vương Câu Tiễn lên làm Vương đã hơn mười năm. Trước đó một năm
Phương Bắc Tề Cảnh Công mất. Con nhỏ là Trà lên Ngôi. Năm ấy Sở Chiêu Vương
cũng mất, thế tử Chương lên nối ngôi Sở còn đang cũng cố xây dựng. Tấn
lại suy yếu, Tề thời Án Anh chết. Lỗ thời Khổng Tử đi, những nước hùng mạnh
Phương bắc xa gần nước Ngô nước nào cũng suy yếu cả. Chỉ có nước Ngô là cường
thịnh nhất. Phù Sai cậy mình binh hùng tướng mạnh, có ý xâm chiếm dần các Sơn
Đông các nước trấn chư hầu Nhà Chu đều lấy làm lo sợ. Phù Sai luôn tìm cách
thôn tính lần các nước Sơn Đông nhưng chưa có cớ để tiến quân. Gặp lúc Điệu
Công nước Tề sai sứ mượn quân nước Ngô, cùng đánh Lỗ.
Phù Sai nói:
Ta vẫn muốn dùng quân sang đánh các nước Sơn Đông nay đã có cớ
rồi! Phù Sai thuận cho nước Tề mượn quân. Lỗ Ai Công nghe Ngô khởi binh kinh
sợ, tức khắc tha cho Vua Châu về nước rồi sai sứ sang xin lỗi với nước Tề. Tề
Điệu Công sai quan đại phu là Mạnh Xước sang nói lại với nước Ngô rằng:
Nước Lỗ đã phục tội rồi, không dám phiền đến nước Ngô nữa.
Phù Sai nổi giận, nói:
Nước Ngô ta có phải là thuộc quốc của Tề đâu, mà Ngô ta đánh hay
không đánh đều phải vân lệnh nước Tề. Âu là thân hành đêm quân đến nước Tề, để hỏi
cái tội làm sao mỗi lúc nói một khác. Nói xong bằng đuổi Mạnh Xước ra. Nước Lỗ
nghe tin vua Ngô giận Tề liền sai sứ đem lễ vật sang dâng vua Ngô lại ước với
vua Ngô cùng đánh nước Tề. Phù Sai vui lòng thuận ngay.
Ngũ Viên can:
Chớ nên! Tôi nghe nói Câu Tiễn ăn không hai món. Cùng vui cùng khổ
với trăm họ. Con người nầy chưa chết là còn lo cho nước Ngô ta không lo coi
chừng đề phòng Nước Việt là nguy cơ sắp đến nơi. Tề chẳng qua chỉ là ghẻ lở ở
ngoài da. Xin Đại Vương bỏ Tề mà kìm hảm sức mạnh nước Việt. Vua Ngô Phù Sai
không nghe cứ đánh Tề. Tức khắc cất quân cùng với nước Lỗ đến vây phía nam nước
Tề. Người nước Tề ai cũng kinh hoảng, và thầm oán Tề Điệu Công tự nhiên sinh sự
chọc giận nước Ngô. Bấy giờ Trần Khất đã chết rồi, con là Trần Hằng giữ quyền chính,
nhân dịp người trong nước không thuận mới bảo Bão Tức rằng:
Sao nhà ngươi không làm “ đại sự ”đi. Ngoài thì làm cho quân Ngô
khỏi giận. Mà trong thời báo được cái thù cho gia tiên. Bão Tức từ chối là
không làm nổi.
Trần Hằng nói:
Ta xin giúp nhà ngươi! Nhân khi Điệu Công đi luyện quân Trần Hằng
dâng rượu độc cho Điệu Công rồi giết đi, cho quân binh bắt Cao Chiêu Tử và Quốc
Huệ rồi sai người dâng nạp cho Phù Sai nói với Vua Ngô Phù Sai rằng:
Chúa Công tôi đắc tội với thuộc quốc đã bị bệnh mà chết, thế là
Trời đã thay Đại Vương mà trị tội Chúa Công tôi rồi. Nếu Đại Vương rủ lòng
thương xót không phá hủy xã tắc nước tôi, thời nước tôi xin đời đời thần phục
thượng quốc. Phù Sai nghe xong liền rút quân về, quân nước Lỗ cũng kéo về nước.
Bấy giờ Vua Việt Trung Nguyên là Câu Tiễn cho người luyện tập mỹ
nữ học múa hát trong ba năm đã được điêu luyện, liền cho đeo ngọc trai, ngồi xe
ngọc, hương thơm ngào ngạc, có một số thị nữ rất đẹp theo hầu, rồi sai quan
tướng quốc là Phạm Lãi đem sang nước Ngô tiến Phù Sai. Khi Phù Sai ở nước
Tề về trong niềm vui chiến thắng.
Ngũ Viên nói Đại Vương chớ vội mừng:
Phù Sai nổi giận nói nhà ngươi ỷ mình có công lớn coi thường Bổn
Vương lúc nào cũng xàm tấu những lời bất trung, ngươi tưởng rằng Bổn Vương
không làm gì được nhà ngươi sao? Ngũ Viên trở về dinh có ý tự sát. Phù Sai nghe
tin đến ngăn lại. Qua ngày hôm sau Phù Sai đang chểnh chệ trên chiếc ngai vàng
nghe triều thần chuẩn tấu. Cũng vào thời điểm ấy Phạm Lãi xin vào yết kiến Phù
Sai. Phù Sai cho vào, Phạm Lãi quỳ lạy mà tâu rằng:
Kẻ bề tôi hèn ở bên đông hải là Câu Tiễn, cảm ơn Đại Vương, không
thể cùng thê thiếp ở bên cạnh Đại Vương hầu hạ được, nên bề tôi kẻ hèn cố
công tìm khắp trong nước được hai người khéo nghề múa hát, sai chúng tôi đem
nạp Vương Cung, để giữ việc quét rửa. Phạm Lãi tâu xong liền cho người đưa kiệu
vào từ ngoài sân rồng một chiếc kiệu ngọc cùng các mỹ nữ đẹp xinh đẹp vô
cùng đi hai bên kiệu ngọc từ từ đi vào hương thơm ngào ngạc triều thần mê
mẫn, Phù Sai vừa trông thấy chiếc ngọc với đàng mỹ nữ thời đã mê rồi. Tiếng sáo
du dương nổi lên tức thời trên chiếc kiệu ngọc hai tuyệt sắc mỹ nhân bước xuống
cả triều thần như sáng rực lên. Phù Sai vừa trông thấy Tây Thi và Trịnh Đán
thời hồn xiêu phách lạc, cho là Thần Tiên mới giáng hạ. Cả triều thần im phăng
phắc quả tim như muốn nhảy ra ngoài, Phù Sai mê mẩn không còn biết gì nữa. Ngũ
Viên thấy thế can rằng:
Bẩm Đại Vương:
Tôi nghe nói Nhà Hạ mất vì nàng Muội Hỉ. Nhà Ân mất vì nàng Đắc
Kỷ. Nhà Chu khốn đốn vì nàn Bao Tự. Mĩ Nữ là một vật có hại cho quân Vương làm
cho mất nước Chúa Công Đại Vương chớ nên nhận. Phù Sai lúc nầy đã mê mẩn nghe
Ngũ Viên Can nổi giận nói:
Người ta ai chẳng có lòng hiếu sắc. Câu Tiễn tìm được mỹ nữ mà
chịu đêm dâng tiến ta, điều đó chứng tỏ Câu Tiễn một lòng trung thành với ta,
quan tướng quốc chớ nghi. Rồi không còn nghe Ngũ Viên khuyên can, Phù Sai nhận
lễ cống của Nước Việt Trung Nguyên. Nhìn hai người mỹ nữ tuyệt sắc hương thơm
ngào ngạc Phù Sai yêu cả hai. Nhưng đẹp lộng lẫy và khéo ăn nói cũng như làm
dáng nũng nịu thời Tây Thi có phần hơn. Bỡi vậy Tây Thi được ở Đài Cô Tô.
Còn Trịnh Đáng thời ở Ngô Cung. Phù Sai đến với Trịnh Đán thấy Trịnh Đán xinh
đẹp quá Phù Sai ngây ngất cả tâm hồn quên hết cả cung phi mỹ nữ ở với Trịnh Đán
được vài hôn rồi sang Cô Tô. Phù Sai vừa nhìn thấy Tây Thi thời hồn xiêu phách
lạc mê mẩn say sưa. Phải nói Tây Thi không những đẹp như tiên giáng trần mà đàn
ca múa hát thanh thót du dương mỗi nét rung động trên người Tây Thi như con bão
cuốn hút tâm hồn Phù Sai bay tận mây xanh.
Nụ cười vừa nở trên môi
Tưởng chừng trời đất rực ngời đầy hoa
Thân hình cá lặng chim sa
Lưng ong, ngực nở nhô cao, mông đầy
Mảnh mai yểu điệu liễu hờn
Hoa nhường nguyệt thẹn lu mờ trăng sao
Tóc nàng như vạn tần mây
Hồ thu trong suốt đẹp thay mắt nàng
Da nàng trắng ngọc sáng ngần
Tuyết không sánh nổi phải nhường màu da
Phù Sai mê mẩn, mẩm mê
Quên luôn tổ quốc, quên đi triều thần.
Tây Thi đẹp đến nổi, đi cũng đẹp, ngồi cũng đẹp, mằm cũng đẹp,
khóc cũng đẹp, đau bụng cũng đẹp. Tây Thi khéo ăn nói, khéo nũng nịu suốt ngày
làm cho Phù Sai mê mẩn quên tổ quốc, quên triều thần, quên luôn nàng
Trịnh Đán xinh đẹp. Tây Thi đến đâu thời nghi vệ chẳng khác gì Phi Hậu. Trịnh
Đán ở Ngô Cung không thấy Phù Sai đến với mình vô cùng ghen tức với Tây Thi,
uất khí không nói ra được, hơn một năm thời qua đời. Phù Sai thương lắm, đem
chôn ở núi Hoàng Mao và cho lập đền thờ cúng tế. Nói về Phù Sai yêu Tây Thi sai
Vương Tôn Hùng lập ra cung Quán Khê ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu
ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi. Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp Lang, trên núi
có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt. Lại có giếng nước trong gọi là giếng Ngô
Vương, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt. Phù Sai đứng ở bên cạnh lấy tay
vuốt tóc cho Tây Thi. Lại có động gọi là động Tây Thi, Phù Sai cùng Tây Thi
cùng ngồi ở đấy. Trên núi lại có Cầm Đài. Phù Sai Tây Thi thường gảy đàn ở đấy.
Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nữ chở thuyền
đi hái hoa, lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành Đô, đó là chỗ Tây Thi
cùng Phù Sai đi hái sen. Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ
Nam sang Bắc, rồi làm cái bườm gấm để chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm Hình. Phía
Nam Đô Thành có Tường Châu Uyển, để làm nơi săn bắn. Lại có Ngư Thành để làm
nơi nuôi cá. Áp Thành để nuôi vịt, Kê Bi để nuôi gà, Tửu Thành để nấu rượu. Lại
thường cùng Tây Thi nghĩ mát tại Nam Loan, hồ Hạ Loan ba mặt đều là núi chỉ có
một mặt Nam hướng về quê Tây Thi. Phù Sai đặc tên lại là Động Đình. Mỗi lần Tây
Thi nhớ quê thời đến đây cùng Phù Sai. Vì quê Tây Thi ở Việt Trung Nguyên gần
Tây Hồ Động Đình. Phù Sai từ khi có được Tây Thi, cứ ở luôn bên Tây Thi thường
ở Cô Tô, bốn mùa vui chơi rượu chè đàn địch, chẳng cần thiết đến việc gì cả.
Chỉ có quan Thái Tế là Bá Hi và Vương Tôn Hùng thường hay hầu bên cạnh. Mỗi khi
Ngũ Viên xin yết kiến, Phù sai từ chối không cho vào.
**************
HẾT QUYỂN 4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét