. . . . VĂN LANG CHIẾN SỰ SỬ TRUYỆN PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG ~ tranminhthang1145

Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2016

VĂN LANG CHIẾN SỰ SỬ TRUYỆN PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG

QUỐC BẢO CHÂN KINH

VĂN LANG CHIẾN SỰ

SỬ TRUYỆN

PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG

THIÊN ẤN - THIÊN BÚT

GÒ HỘI

ĐỨC PHỔ - QUẢNG NGÃI

2013

NGUYỄN ĐỨC THÔNG

QUYỂN 2

XÂM LƯỢC

Cội nguồn văn hóa đã mất đi.
Vận nước Văn Lang khổ li bì.
Binh đao máu lửa ôi cùng khắp.
Nồi da nấu thịt mạng còn chi.
Cơ hội nghìn năm giặc tràn đến.
Chúng xơi chúng nuốt béo phi phi.
Tan nhà nát cửa xưa nay thế.
Đồng bào tàn hại nước lâm nguy.

   Đây nói về Bắc Văn Lang, tình hình càng về sau càng trầm trọng, các Bộ Lạc Bách Việt nổi lên đòi tự trị, tranh giành quyền lực, xưng Vua, xưng Chúa, thôn tính tiêu diệt lẫn nhau, không khác gì phương Bắc vài ba trăm nóc nhà  cũng xưng Vua, nồi da nấu thịt, thắng là Vua thua là giặc, xem đi xét lại giặc với Vua chẳng khác gì nhau.


   Bổng quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân, từ phía Tây Nam nhà Chu, tràng qua Tây Bắc Văn Lang như kiến.  Chúng chia làm ba mũi thọc sâu vào đất Bắc Văn Lang,  trước sức mạnh quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân, những Vua Việt nổi lên tự trị chống trả không lại đành phải bỏ mạng, quân Ngô, quân Sở, quân Tề, chiếm đóng trên đất Văn Lang, biết chống trả không lại đành phải rút lui về đất Bắc. Quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân, thế mạnh như chẻ tre, như trận hồng thủy tràn tới đâu là cuốn sạch tới đó. Chúng như ba con quỉ dữ nuốt nhanh chóng Châu Phủ, Quận, Huyện, Văn Lang.

   Huyện Tây Bắc, Huyện Tây Trung, Huyện Hạ Tây,  nuốt luôn Châu Phủ Tây Châu, Tây Bắc Châu, giết chết Vua Di Việt, Vua Phiên Việt, nhanh chóng tràn xuống Bắc Văn Lang, chiếm lấy các Châu Phủ như lấy đồ trong túi, chiếm lĩnh  Dương Giang Châu, Giao Giao Châu, Bắc Giang Châu.

   Giết chết Vua Dương Việt, Vua Giao Việt, Vua Trung Việt. Tam quân như ba con quỉ dữ hung tàn bạo ác vô cùng quy hàng thời sống, chống lại thời chết, ba con quỉ dữ nhanh chóng nuốt luôn Kinh Giao Châu, giết chết Vua Kinh Việt thọc sâu xuống sang bằng Đông Bắc Hải Châu,  giết chết Vua Kiều Việt, tiến thẳng về phía Nam thôn tính Đông  Hải Châu, giết chết Vua Đông Việt, tỏa rộng bao vây tốm gọn Hạ Giang Châu, giết chết Vua Điền Việt, chưa đầy một năm ba con quỉ nuốt trọn tất cả các Châu như thế, làm chủ gần một nửa Bắc Văn Lang. (Những vị Vua việt bị giết chết nói trên là những vị Vua lớn ngang hàng với nước Sở, nước Ngô, nước Tống, nước Tấn, nước Ngụy, nước Yên, ở phương Bắc).
Thê thảm nào hơn thảm cảnh nầy
Quan hệ sói lang nạn là đây
Bất trung bất hiếu lìa cội gốc
Tôn thờ lũ giặc, giặc chuyển xây
Theo giặc, giặc hại luôn là thế
Làm giặc, thời giặc đến bủa vây
Chia năm, xẻ bảy, xưng hùng bá
Nắm đủa rả rời, giặc bẻ từng cây.

KHỐN KHỔ

Nước loạn cơ nguy vốn xưa nay
Nồi da nấu thịt  cảnh đọa đày
Đến khi thức tỉnh thời đã muộn
Cơ nghiệp còn đâu trắng trắng tay
Gông cùm xiềng xích thân nô lệ
Tự do mất hết họa tai bay
Sa vào cạm bẩy mưu phương Bắc
Nước mất nhà tan ngục thế thay.

   Đây nói về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, Bắc Văn Lang, cố thủ chống trả quân Ân, đã hơn một trăm ngày chờ mãi viện binh không thấy đến, lương thực đã bắt đầu cạn lần, nguy khốn mỗi ngày một thêm chồng chất.

   Hùng Lang Công vô cùng nóng lòng đi tới đi lui, lo lắng không yên, lẩm bẩm quân Xích Linh sao không thấy tới cứu viện, còn quân Giao Châu nữa sao mà chậm trể thế, hay có chuyện gì xảy ra không.

   Còn Lạc Hầu Công vào Kinh Đô Văn Lang cầu viện hơn tháng sao chưa thấy về, hay là bị giặc bắt rồi, Hùng Lang Công càng nghĩ càng lo. Đang trong lúc lo lắng không yên, thời có quân vào báo bẩm Vương Công, quân Ân lại tới khiêu chiến, Hùng Lang Công, cùng các Quan lên thành xem thấy từ doanh trại của giặc Ân ước lượng hơn năm nghìn quân chúng rầm rộ kéo tới kinh thành khiêu chiến. Tướng giặc quả là oai phong lẩm liệt, đầu đội kim khôi, mặc giáp đồng, cầm thanh đại đao sáng loáng có ngời, cỡi con ngựa trắng giọng nói vang như sấm, chỉ nhìn sự uy dũng của tướng giặc, cũng đã uy hiếp tinh thần đối thủ hết mấy phần rồi. Tướng giặc đến trước cổng thành lớn giọng chửi rủa con cháu Tiên Rồng mà nhác như thế sao, oai phong ông cha các ngươi đâu hết rồi, chỉ là một lũ bị thịt, thôi thì mở cửa đầu hàng, thời ta cho các ngươi con đường sống, trở thành dân nô lệ, còn nếu sợ quá cố thủ thời ta chờ các ngươi sạch ruột, làm thịt mới ngon.

   Hùng Điền con của Hùng Lang công nghe tướng giặc chửi rủa tức giận chịu không nổi, bằng nói với Hùng Lang Công rằng, chúng ta đánh một trận với chúng có chết cũng cam, nổi nhục nầy không thể nào nhịn được, các tướng ai nấy cũng đồng tình lời nói của Hùng Điền, thà chết nhất định không chịu nhục.

   Hùng Lang Công, nghĩ đã là con cháu Tiên Rồng thời còn sợ ai mà co đầu rụt cổ, có chết thời chết cho anh hùng.
Bằng trao ấn lịnh cho Hùng Điền.

   Hùng Điền vô cùng mừng rỡ, bằng điểm hơn năm nghìn binh, mở cổng thành ra xông ra nghinh chiến với giặc.

   Tướng giặc thấy người ra trận là một trung niên mặt trắng, đầu đội kim khôi, mình mang giáp đồng, tay cầm trường thương, cỡi con ngựa hắc long, oai phong lẩm lẩm, Hùng Điền, phi ngựa lao tới quát lên như sấm nổ tên giặc ngoại xâm hổn láo kia mau xưng tên họ rồi nạp mạng.

   Tướng giặc ra oai không kém hét lớn, loài Rồng thời ta còn ngán, còn loài giun thời ta chẳng coi vào đâu, mau xuống ngựa quỳ xuống ta cho cái chết toàn thây, Hùng Điền không nói không rằng phi ngựa lao tới, trường thương vun vút nhắm đối thủ tấn công như vũ bão.

   Tướng giặc cũng không kém hét lên một tiếng phi ngựa lao tới xáp chiến, binh khí chạm nhau đinh tai nhứt óc, binh lính hai bên chiêng trống dậy trời.
Nhìn trận địa rền vang chiêng trống
Bụi mịt mù ngựa cuốn vòng  xoay
Thương đao chơm chớp trời mây
Ầm ầm trận địa giao tranh ầm ầm.

   Đánh hơn năm mươi hiệp mà chưa diệt được kẻ thù Hùng Điền hét lên một tiếng, dùng chiêu thái sơn áp đỉnh, cọng với chiêu âm dương sát thủ như tia chớp đâm đánh tướng giặc, tướng giặc thấy trường thương chớp chớp cuốn tới như một trận lốc, thời thất kinh múa đao lên chống đở đùng đùng ầm ầm, tướng giặc sít chút nữa thời bỏ mạng. Tướng giặc không còn dám xem thường nữa, dùng tuyệt kỷ yêu đao phi ngựa chém tới ầm ầm, yêu đao chơm chớp như mưa sa, người ngựa phóng lên không chém xuống.

   Hùng Điền bình tỉnh dùng chiêu ngọa Hổ tàng Long, chống đở, hai bên đánh nhau kẻ tám lạng người nửa cân hơn trăm hiệp vẩn chưa phân thắng bại.
Quả là:
Con cháu Tiên Rồng vốn anh hùng
Trường thương vun vút đảo càn khôn
Mưa tuôn quyền pháp rền sông núi
Vó ngựa réo vang đánh dập dồn.

   Hùng Điền quyết giết cho bằng được tướng giặc, nên trường thương càng lúc càng lợi hại, tướng giặc biết đánh không lại, bằng nghĩ ra một kế giả thua bỏ chạy giết chết Hùng Điền, quả là Hùng Điền đã trúng kế rượt đuổi theo tướng giặc, bất thình lình tướng giặc quăng lên không một vật, tức thì một luồng khói độc tuông ra, Hùng Điền bất ngờ tránh không kịp bị khói độc tuông trúng xây xẩm mặt mày, tướng giặc quay ngựa trở lại nhanh như chớp chém Hùng Điền một đao bỏ mạng.

   Quân Ân thắng thế ào ào lao tới đánh cho quân Văn Lang một trận tơi bời hơn năm nghìn người chỉ còn có mấy trăm. Hùng Lang Công thấy con chết vô cùng đau xót, Hùng Tướng thấy em chết, vừa đau xót, vừa căm hận quân giặc, quyêt tâm trả thù cho em, liền nói với Hùng Lang Công rằng.

   Thưa cha, cho con ra trận giết thằng giặc đó trả thù cho em. Hùng Lang Công cũng vô cùng căm tức, bằng nói con ra trận hết sức cẩn thận, không nên rượt đuổi theo tên giặc, Hùng Tướng bằng điểm năm nghìn quân tinh nhuệ, mở cổng thành ào ào lao tới hò hét xáp chiến với quân Ân, tướng giặc Ân cũng ra oai không kém, hò hét thúc quân xáp chiến.
Thế là dậy núi dậy non
Quân reo, giáo đổ, kiếm tuôn ầm ầm
Quân ân khiếp vía rụng rời
Thây người gục ngã đất trời rung rinh
Bất ngờ yêu, quỉ, ma, tinh
Đầy trời xuất hiện rung rinh đất trời
Văn Lang quân tướng tàn đời
Phơi thây chiến trận ôi thời thảm thương
Vì dân vì nước hy sinh
Văn Lang Quân, Tướng, anh linh muôn đời.

   Nói về Hùng Lang Công, cùng các tướng ở trên thành xem trận địa, thấy quân Văn Lang đánh quân Ân tơi bời, thây phơi chật đất, vui mừng vô kể. Cùng lúc ấy từ doanh trại của giặc Ân, thấy một bóng vụt lên hư không, thì ra đó là một nữ tướng, cỡi con ngựa thiên lý mã, chớp mắt đã tới trận địa.

   Hùng Lang Công thất kinh thét lớn con ta nguy mất, chỉ thấy nữ tướng tay chỉ lên hư không, tức thời yêu, tinh, ma, quỉ, hiện ra đầy trời, mây đen cuồn cuộn, quân Văn Lang chỉ trong phút chốc chết không còn một mạng, từ đó Kinh Đô cố thủ cầu mong quân tiếp viện đến mà thôi.

TỬ CHIẾN

Chúng dân lạc Cội nước khốn nguy
Binh đao máu lửa khổ li bì
Chồn, cáo, can qua ăn nuốt sống
Tan nhà nát cửa mạng còn chi.

   Đây nói về Kinh Giao Châu, cách Kinh Đô không xa chỉ  hơn 30 dặm, nghe Kinh Đô bị bao vây, liền bàn kế đưa quân tiếp ứng, Lạc Đô Tướng nói với  quan tổng chính, khi ta đưa quân đến cứu viện Kinh Đô, nếu có giặc đến tấn công thời cố thủ mà thôi, dặn dò xong đâu vào đấy.

   Đô Tướng  liền mở cổng thành  dẫn hơn một vạn quân nhanh chóng đến Kinh Đô, quân binh vừa đến Huyện Giao Trung, đến đồi Lạc Địa, thời nghe tiếng reo hò dậy trời dậy đất, quân Ân hiện ra lớp lớp, gươm đao giáo mác sáng ngời.

   Lạc Đô Tướng, thấy người dẫn đầu quân Ân là một nữ tướng trung niên,vô cùng xinh đẹp, liền có ý coi thường. Lạc Đô Tướng giục ngựa tới hét, mau xưng tên họ, đàn bà con gái mà cũng ăn cướp xâm lược, gặp ta là coi như đã tới số, mau xuống ngựa chịu trói, thời ta cho cái chết toàn thây, bằng không xương thịt nát nhừ.

   Không ngờ nữ tướng không sợ mà còn thét lên lanh lãnh, ngươi đã gặp Sát Sát ta, thời ngươi đã hết con đường sống, trời sanh ra đất đai, là không phải của riêng ai, người nào có tài thời người đó được, Văn Lang đã đến thời mạc, đất đai sẽ thuộc về người khác, mau quy hàng thời ta cho cái chết toàn thây.

   Lạc Đô Tướng quát! đồ hổn láo rồi phi ngựa tới thét lớn, nộp mạng đi, thanh đại đao chém tới với một sức mạnh kinh hồn, hai bên quân lính tướng tá, reo hò dậy núi dậy non. Không ngờ nữ tướng không cần né tránh đưa đao lên chống đở, Đô Lạc Tướng thấy thế vui mừng quát! xong đời nầy. Không ngờ một tiếng ầm kinh thiên động địa, cả người lẫn ngựa bị dội ngược trở lại, lòng bàn tay đau buốt. Lạc Đô Tướng, kinh hoàng như không tin ở mắt mình, Nữ Tướng quát lên lanh lãnh, giục ngựa lao tới đại đao vun vút chém tới, kình phong tuôn ra ù ù. Lạc Đô Tướng không còn xem thường nữa dốc hết sức bình sanh ra chống đở, hai ngựa quần thảo với nhau khói bụi mịt mù, binh khí chạm nhau đinh tai nhứt óc.

   Lạc Đô Tướng càng đánh càng yếu thế, đánh nhau hơn năm mươi hiệp, Lạc Đô Tướng chỉ còn nhờ vào tuyệt chiêu cuối cùng may hạ gục đối thủ, liền hét lên một tiếng vận dụng hết sức bình sanh đánh ra tuyệt chiêu, liên hoàn đao pháp, ánh đao chớp chớp, liền biến ra ảo ảnh chín đường đao chém tới, quả là một chiêu vô cùng lợi hại.

   Nữ tướng thấy chiêu đao pháp quá lợi hại như vậy, liền tàn hình biến mất.

   Lạc Đô Tướng thất kinh, chưa biết phải làm sao, thời nghe trên không có tiếng gió lao xuống, thất kinh Lạc Đô Tướng múa lên thiên vạn đao chống đở, chỉ biết ầm ầm đinh tai nhứt óc, bốn vó ngựa Lạc Đô Tướng lún sâu. Lạc Đô Tướng chưa hết kinh hồn, thời một tia chớp nổi lên Đô Tướng tránh không kịp trúng một đao bỏ mạng, sau có thơ khen rằng :
Sống ở đời, không ai là không chết
Vì non sông Tổ Quốc nguyện hy sinh
Dù có chết, chết vì dân vì nước
Mãi hùng anh trong nòi giống uy linh.

   Quân Ân thắng thế reo hò vang dậy, ào ào xông tới tiêu diệt quân Văn Lang, quân Văn Lang như rắn mất đầu, hổn loạn bị quân Ân tiêu diệt một cách dễ dàng.
Thảm thương con cháu Tiên Rồng
Ngoại xâm tàn sát đau lòng biết bao
Trời u tối một màng đêm đen thẳm
Lạc Cội Nguồn ôi thê thảm, thảm thê
Kìa trước mắt đầy hố thẳm chông gai
Cơ tạo hóa chuyển vần xoay nguy khốn
Giặc lan tràn khó tránh khỏi kiếp tai.

   Đây nói về Quan Tổng Chính trong lòng cứ mãi hồi hộp không yên, đang ra sức cùng binh lính cũng cố trấn giữ Kinh Giao Châu. Thời có quân binh vào thông báo. Bẩm Tướng Quân, quân ta đã thất trận tại Huyện Giao Trung, quân Ân đang kéo tới, bao vây Kinh Châu Đông như kiến. Quan tổng chính nghe báo cáo rụng rời cả tay chân, liền cùng các quan lên thành xem coi, thời không khỏi thất kinh. Quân Ân kéo tới càng lúc càng đông bao vây Kinh Giao Châu. Quan Tổng Binh cùng các Quan, chỉ còn biết cố thủ tới đâu hay tới đó.

   Cùng lúc ấy, Xích Linh Giao Châu, đang chống trả với quân Hung Nô.

   Đây nói về Xích Linh Giao Châu, Lạc Hầu Vương  nghe tin giặc Ân bao vây tấn công Kinh Đô, thời trong lòng kinh hãi, đâu mà nhanh đến thế, nếu giặc chiếm được Kinh Đô thời Bắc Văn Lang coi như đã thuộc về chúng.

   Tức thời sai con là Lạc Hồng Hầu, thống lãnh một vạn quân nhanh chóng đến giải vây cứu viện Kinh Đô, đi ngay trong đêm,  khi đến đồi Mục Linh đường đi rậm rạp lại có gió lớn, nghe như có quân mai phục, quả đúng như vậy hai bên cây cối rậm rạp quân Ân mai phục, tên bắn ra như mưa,  Lạc Hồng Hầu thất kinh, vì sa vào ổ phục kích của giặc, lại sợ bị hỏa công bằng cho lui quân trở lại.

   Bổng thấy đuốc lửa sáng ngời, quân reo dậy đất, một tướng đi đầu mình cao sáu thước mặt đen hung dữ râu ria lồm xồm, viên tướng ấy là ai? Còn ai nữa Hắc Quỉ một tướng tài của quân Ân, Hắc Quỉ quát ta đợi ngươi ở đây đã lâu, mau cúi đầu chịu trói, Lạc Hồng Hầu quát lên như sấm nổ xông lên tử chiến với quân cướp nước, thế là quân Văn Lang ào ào xông tới xáp chiến, gươm đao dậy trời.
Trong phút chết, còn chi để mất
Chí hùng anh trong phút chốc cũng vui
Nào xông lên nầy hỡi anh em
Đường quyết tử, ta xông lên quyết tử
Kiếm đã gào thời quân thù phải ngả
Nào tiến lên, nào quyết tử xông lên.

   Trước khí thế đầy hào hùng của quân Văn Lang, khó mà hạ Gục nhanh chóng cho được, hai bên đánh nhau tới sáng, quân Ân tuy chủ động nhưng cũng không tiêu diệt hết nổi quân Văn Lang.

   Lạc Hồng Hầu dẫn tàn quân lui về Xích Linh Châu, hai vạn quân đã chết hơn phân nửa, Lạc Hồng Hầu mình mẩy đầy thương tích, nói với Lạc Hầu Vương rằng tình hình vô cùng nguy cập quân Ân, phục kích khắp mọi nơi, chúng phục kích khắp các ngả đường chính yếu tiếp viện, khó mà cứu viện cho được.

   Lạc Hầu Vương cũng hiểu rõ tình hình vô cùng nghiêm trọng, nói con giữ được mạng sống là may rồi.

   Lạc Hầu Vương, lúc nào cũng lo lắng không yên chỉ biết nhìn Bắc Văn Lang mất lần về tay giặc, nhất là từ khi Lạc Hồng Hầu thất trận. Trong lúc bàn bạc cùng các Quan, thời có quân vào báo.

   Giặc Hung Nô đã chiếm lấy Quý Linh Giao Châu, khói lửa ngập trời, chúng như những con quỉ dữ đi đến đâu thời chết chóc nhà tan cửa nát đến đó, đàn bà con gái bị chúng hảm hiếp cho đến chết, gà chó cũng không còn, vơ vét vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu, nói chung là không chừa một thứ gì, kể cả lương thực.

  Quân binh các Quận Huyện, không có sự liên kết, như những đốm lửa nhỏ, nên bị quân Hung Nô dập tắc, quét sạch một cách dễ dàng, tất cả đều thiệt mạng. Lạc Hầu Vương than mất đi văn hóa Cội Nguồn, là mất đi tất cả, tinh thần dân tộc bị suy sụp, dân chúng bị văn hóa  phương Bắc làm hại, đầu độc, làm tan rả sự đoàn kết, chia năm xẻ bảy, tranh giành quyền lực thời tránh sao khỏi ngoại xâm thôn tính. Hơn nữa sự giàu có, đất đai trù phú của Bắc Văn Lang luôn luôn khơi dậy lòng tham lam thèm khác của những tên bạo chúa, nhất là những tên tham vọng lớn hung sùng ác sát phương Bắc, chúng dùng hết mưu kế nầy đến mưu kế khác, miễn sao chiếm lấy được Bắc Văn Lang.

   Sự lơ là mất cảnh giác đã dẫn đến hậu quả sa vào kế sách của chúng, như cá nằm trong lưới, khó mà thót khỏi kiếp nạn, mong gì bình ổn lại cho được.

   Quân Ân, quân Hung Nô, quân Hồ, vốn quá mạnh, lại có yêu tinh phò trì, không dễ đánh bại được chúng. Chỉ còn chút hy vọng, là nhờ quân chủ lực Văn Lang đến giải cứu, đẩy lui quân giặc, nhưng nào có thấy gì đâu, Lạc Hầu Vương, chỉ biết thở  dài, chỉ còn biết tới đâu hay tới đó. Đang lúc buồn rầu, thời có quân vào báo.

   Bẩm Hầu Vương, quân Hung Nô đang ồ ạc tiến về Xích Linh Giao Châu, tiến đánh chúng ta. Nghe quân báo tình thế mỗi lúc một nguy cơ dồn dập, Lạc Hầu Vương, cùng các quan lên thành xem nhìn về hướng Bắc thấy khói bụi mịt mù, quân Hung Nô chia nhau thành nhiều mũi tiến về Xích Linh với thần tốc kinh người.

   Đây nói về quân Hung Nô, như nhiều cơn lốc kéo đến bao vây Xích Linh Giao Châu, chúng không tấn công ngay mà chỉ đóng trại bao vây mà thôi.

   Hung Nô Vương tập hợp các tướng lãnh lại nói rằng, chúng ta chưa thể tấn công chiếm lấy Xích Linh Châu được đâu, vì Xích Linh Châu không phải như những Châu phiến loạn, mà là những quan quân đầy lòng trung hiếu quyết bảo vệ Văn Lang.

   Chúng ta sở dĩ chiếm lấy các Châu Thành, cũng như hàng loạt Quận, Huyện, tiêu diệt hơn mười Vua Việt, là những vị Vua nổi lên đòi tự trị, phản loạn, phản bội lại nhà nước Văn Lang, đánh mất có lòng trung thành đối với Tổ Quốc, tự mình đánh mất sự đoàn kết dân tộc, tôn thờ văn hóa phương Bắc, nên chúng ta mới tiêu diệt chúng dễ dàng như vậy.

   Còn đây là Xích Linh Châu, những Châu chưa nổi lên đòi tự trị, xưng Vua, xưng Chúa, thời khó mà tiêu diệt nhanh chóng cho được, phải có nhiều kế sách hay mới tiêu diệt được chúng, vì thế càng tiến sâu vào đất Văn Lang chúng ta gặp nhiều khó khăn.

   Các Tướng lĩnh Hung Nô tuy nghe Hung Nô Vương nói thế, nhưng trong lòng thời xem thường quân Văn Lang. 

   Nói về Lạc Hầu Vương cùng các Quan Tướng thấy quân Hung Nô cờ xí rợp trời từ các mũi lao tới bao vây cung thành đông như kiến, chúng không tấn công liền mà chỉ đóng trại bao vây xung quanh cung thành, một ngày rồi đến hai ngày, nổi lo lắng Lạc Hầu Vương đã hiện rõ trên sắc mặt, gầy đi thấy rõ, chưa tìm ra kế sách gì để chống trả lại quân giặc chỉ biết ra quân cố thủ cung thành được ngày nào hay ngày nấy.

   Thấy các Quan cứ im lặng mãi, Lạc Kim Tiên nói theo lời xưa có kể lại rằng, Quốc Tổ Vua Hùng là đấng Chí Tôn Thiên Đế đầu thai, con lớn của Đức Cha Trời, yêu tinh quỉ dữ nhìn thấy uy danh của người đều khiếp sợ, Xích Linh Châu ta có thờ chân dung của người, sao không cho người họa hình ra cũng như viết uy danh của người lên cờ đem cắm lên những chỗ yếu điểm trong cung thành, thời may ra chống đở được yêu tinh quỉ dữ.

   Đến lúc nầy đâu còn cách nào hơn, là làm theo lời của Lạc Kim Tiên.

   Lạc Hầu Vương, cho người họa hình Quốc Tổ, cũng như viết lên uy danh Quốc Tổ  trên những lá cờ chính, cắm lên những nơi chính yếu quan trọng của cung thành.

   Nói về quân Hung Nô đến ngày thứ ba, thời các doanh trại đều chuyển động như có cuộc xáp chiến xảy ra, chúng duyệt binh liên tục, khí thế hừng hực, những đoàn quân thiết kỵ của chúng chuyển động thần tốc như đội quân ma quỉ, thấy mà rùng mình. Biết có biến cố sắp xảy ra, các quan tướng trong thành tập trung cao độ, cho tinh thần quyết tử, vì non sông Tổ Quốc mà hy sinh.

   Mặt Trời xuống núi không lâu, thành Xích Linh chìm trong màng đêm u tối, trên bầu trời các vì sao lấp lánh lúc mờ lúc tỏ, bởi những đám mây che khuất, nhưng cũng thấy được giặc Ân, giặc Hung Nô dẩm đạp lên quê hương mang theo mùi máu tanh của lũ ác quỉ.

   Chúa Vương Hung Nô đang đọc Thần chú triệu yêu, ma quỉ dữ đến, rồi ra lịnh cho quỉ dữ yêu ma, bay vào thành đánh phá quân Văn Lang, làm cho quân Văn Lang khiếp đảm rối loạn, nhất là những quan binh trấn giữ cổng thành, lũ yêu tinh, ma, quỉ, tuân lịnh rồi tức tốc bay vào thành xích linh, chúng làm phép trời đất tối tăm mù mịt, cuồng phong nổi dậy ù ù cờ xí gãy sạch chỉ còn một số không hề hấn gì. Vương Quan binh lính kinh hồn bạc vía, bóng ma bóng quỉ chập chờn khắp nơi, quân binh rối loạn, Lạc Hầu Vương, cùng các quan kinh khiếp, thét lớn yêu tinh ma quỉ đã tấn công thành chúng ta bình tỉnh chống trả lại chúng, trong lúc nguy cơ hổn loạn ấy, từ những cây cờ đề bốn chữ Chí Tôn Thượng Đế, cũng như những cây cờ có treo hình Quốc Tổ, đồng loạt phát ra tia sáng, làm cho yêu tinh, quỉ ma, tan biến hết thảy.

   Bổng bầu trời trở nên trong sáng, muôn vạn vì sao nhấp nháy, như che chở cho thành Xích Linh.

   Chúa Vương Hung Nô lấy làm kinh dị nói chuyện gì xảy ra thế, chuyện gì xảy ra thế. Đang lúc hoang mang, thời thấy một con quỉ xuất hiện, run sợ nói có Thượng Đế che chở, có Thượng Đế che chở nói xong biến mất.

   Hung Nô Vương tuyền lịnh không tấn công nữa, trời sáng tỏ, Hung Nô Vương cùng các tướng lĩnh, nhìn lên thành thấy có một số cờ đề bốn chữ Chí Tôn Thượng Đế,  cũng như có một số cờ treo hình một người.

   Các Tướng lĩnh Hung Nô nói ai mà có quyền lực đến thế, Hung Nô Vương nói, còn ai nữa, đó là người khai lập dựng lên nước Văn Lang.

   Các Tướng lĩnh nói người chết đã hơn hai nghìn năm mà còn oai linh như thế sao, Hung Nô Vương nói ta cũng không tin, nhưng yêu tinh quỉ dữ khiếp sợ như vậy không tin cũng không được.

   Một số Tướng lỉnh Hung Nô nói chỉ là hình vẽ, với mấy chữ kia thời làm gì được chúng ta.

   Chúa Hung Nô như tỉnh ngộ nói, các Tướng nói đúng chỉ vài chục hình vẽ, với mấy chữ kia thời làm gì được chúng ta. Hung Nô Vương ra lịnh, bắt tất cả tù binh làm thang giây, gôm hết tất cả dầu trong dân, cũng như dầu trong các châu thành lấy được, những dụng cụ công phá thành chiếm được khắp nơi chuyển hết tới đây, lấy vũ khí của địch giết địch.

   Lạc Hầu Vương cùng các Quan trên thành thấy quân Hung Nô đang ra sức tạo ra khí cụ công thành thời kinh hãi, quân Hung Nô vốn đã đông, lại biết xử dụng tù binh làm ra khí cụ công thành, thời biết ngày tận cùng thành Xích Linh đã đến. 
Cây  mất Gốc rũ cành héo ngọn
Người mất Nguồn đại họa hung tin
Nhà tan nước mất tan thương
Thân tàn nô lệ còn chi cuộc đời
                                
KIẾP NẠN

   Nói về bách tộc Văn Lang có một số bộ lạc Bách Việt, hấp thụ theo văn hóa phương Bắc, nổi lên đòi tự trị xưng Vua, xưng Chúa, không khác gì ở phương Bắc, chỉ cần vài trăm nóc nhà thời xưng Vua, xưng Chúa tự trị một vùng.

   Đây chính là cơ hội cho phương Bắc chiếm lấy Bắc Văn Lang, một cách dễ dàng.

   Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, tràn qua chiếm lấy Huyện Tây Bắc, Huyện Tây Trung, Huyện Hạ Tây, rồi chia nhau làm ba mũi đánh chiếm Bắc Văn Lang.

   Quân Hồ  đánh phía Tây Bắc Văn Lang, quân Hung Nô tiến dọc theo biên giới Bắc Văn Lang thọc sâu xuống Đông Bắc Văn Lang, rồi tiếng sâu vào đất Văn Lang. Quân Ân tiến theo trung lộ đánh thẳng vào Kinh Đô Bắc Văn Lang, tức là Nam Kinh Xích Quỷ.

   Quân Hồ khi tiến qua Huyện Tây Trung tiến đánh Phủ Tây Châu, giết chết Vua Tây Việt  chiếm lấy Hồ Châu, giết chết Vua Man Việt, chiếm lấy Âu Sơn Châu, giết chết Vua Sơn Việt, những bộ lạc hùng mạnh Tây Bắc nổi lên đòi tự trị xưng Vua, làm sao chống lại quân Hồ đành phải thiệt mạng, chết thê chết thảm.
Về sau có thơ rằng:
Cái dại nào hơn cái dại nầy
Chia bè rẽ phái lợi gì đây?
Cấu xé giành nhau tranh quyền bá
Ngoại xâm kéo đến nát tan thây.

   Quân Hồ tràn qua Tây Bắc Văn Lang, tàn sát chết chóc tan thương, gào thét làm mưa làm gió, những người yêu nước căm giận vô cùng, đau buồn khôn tả, nhìn cảnh giặc cướp phá, giết chóc, hảm hiếp phụ nữ, tàn hại trẻ con, những người còn sống, chúng bắt làm nô lệ, đánh đập dã man, trước thảm cảnh nước mất nhà tan, đau đớn vô cùng.

   Quân phiến loạn ra sức chống cự quân Hồ, nhưng khác nào bầy dê xông vào bầy cọp, làm cho cọp béo mập thêm. Quân Hồ tiến sâu vào Tây Bắc Văn Lang như đi vào chỗ không người, chiếm hết Châu Phủ nầy đến Châu Phủ khác, quân phiến loạn nổi lên đòi tự trị, quỳ mạp sát đất dưới chân quân Hồ.
Sau có thơ rằng:
Con cháu Tiên Rồng đó phải chăng
Hay là lũ chuột, chỉ tranh ăn
Chia năm xẻ bảy quên tuyền thống
Hậu quả là đây, giặc nuốt ăn.

   Nói đến chiến tranh xâm lược phương Bắc, không chỉ xâm lược bằng binh hùng tướng mạnh, mà còn xâm lượcbằng con đường họp tác ngoại giao, toàn diện, xâm lược bằng con đường văn hóa, làm cho dân tộc Văn Lang mê muội quên đi Nguồn Cội, quên đi truyền thống Anh Linh của cha ông, mắt vào kế sách mưu gian của chúng, đến khi phát hiện thời không còn kịp nữa để mà chống trả.
Về sau có thơ rằng:
Nhân tình thế thái vốn xưa nay
Lầm mưu gian kế, giặc mưu bày
Đến khi hiểu rõ thời đã muộn
Nước mất nhà tan cảnh trắng tay.

   Nói về quân Hồ càng lúc càng tàn ác chúng lấy sạch, giết sạch, đốt sạch, chúng như đàn quỉ dữ ăn thịt người, uống máu người, trước tình cảnh nầy ai mà không căm hờn, đau lòng, xót dạ.
Về sau có thơ rằng:
Một lũ yêu tinh quá bạo tàn
Giết người, hút máu, chúng ăn gan
Con gái, đàn bà, ôi thê thảm
Chúng vùi, chúng dập nát nát tan.

   Đây nói về Kiến Giao Châu, có vị quan Trung Chính, Châu Phủ, Châu An, ngày đêm đốc thúc binh lính cũng cố trấn giữ châu thành, đang lúc hợp bàn cùng các Quan các Tướng, thời có quân vào báo.

   Bẩm Thượng Quan quân Hồ đang kéo đến bao vây Châu thành, Châu An cùng các Quan lên thành thấy hướng Tây Bắc khói bụi mịt mù, chúng chia ra làm nhiều mũi lao tới bao vây thành Kiến Giao, vó ngựa vang rền uy hiếp tinh thần đối thủ, chúng như những đàn kiến mỗi đàn dài hơn mười dặm, uốn lượn, ngoằn ngoèo lúc thời bung ra lúc thời nhỏ lại ai nhìn thấy cũng phải khiếp kinh.

   Châu An có người con gái là Châu Tiên có học được pháp thuật, nên Châu Phủ An đặc hết niềm tin vào người con gái nầy, may ra chống trả lại quân thù xâm lược.

   Châu Tiên nói với cha, khi con còn học Đạo với thầy con nếu gặp lúc vô cùng nguy cấp, thời lập đài tế lễ khấn vái Quốc Tổ, thời có thể tai qua nạn khỏi.

   Nghe lời con Châu An cho lập đài tế lễ sẳn, khi cần thời lên đài tế lễ ngay.

   Cùng lúc ấy quân Hồ kéo đến bao vây thành Kiến Châu một lúc một đông, chúng không tấn công liền mà chỉ đóng trại bao vây.

   Qua ba ngày sau từ doanh trại lớn của quân Hồ, xuất hiện một tướng lĩnh dẩn theo chừng năm trăm quân tiến đến cổng thành Kiến Châu, mở dọng hách dịch lớn lối nói rằng nầy Quan Hửu Chánh Châu An, mở cửa thành đầu hàng đi thời ta tha cho con đường sống, bằng không con gà con chó cũng không còn, không bao lâu nữa nước Văn Lang sẽ biến mất, ngươi không thấy sao Bắc Văn Lang  mất rồi chỉ còn thành Kiến Châu nhỏ bé, ta chỉ cần ra tay thành Kiến Châu sẽ trở thành bình địa.

    Đến giờ nầy mà con cháu Tiên Rồng gì nữa, con giun thì có, mau mở cửa thành đầu hàng đi.

   Châu An cùng các Tướng tức giận đến muốn vỡ lồng ngực, nhất là Châu Tiên.

   Châu Tiên nói cha cho con ra trận giết quách thằng khốn nạn kia cho hả cơn tức giận, làm cho quân Hồ khiếp vía mà rút lui.

   Châu An biết con gái mình võ nghệ cao cường, pháp thuật cao siêu, nhưng đối thủ là Tướng nam khó mà đối địch, Châu Tiên biết ý cha, cha yên tâm con biết tự lượng sức mình, Châu An cực chẳng đã mới để Châu Tiên ra trận,
cổng thành vừa mở một nữ Tướng mắt Phụng, mày ngài, mặt hoa, da phấn, lưng ong, ngực nở, không cần mặt áo giáp gì cả, xinh đẹp mãnh mai, như Tiên giáng trần, tướng giặc vừa thấy như bị hút hồn, bỡi sắc đẹp chim sa cá lặng.

   Châu Tiên, thấy Tướng giặc ngơ ngác như bị hút hồn, thời quát lớn, quân cướp nước kia đã gặp ta thời hết con đường sống, mau xuống ngựa chịu trói, nghe tiếng quát Tướng giặc liền tỉnh hồn.

   Với con mắt thèm khác, nhìn Châu Tiên chầm chầm như muốn ăn tươi nuốt sống, Tướng giặc thốt đẹp quá đẹp quá ta chưa từng thấy bao giờ, bắt sống về làm đồ chơi, nói xong tướng giặc thúc ngựa lao tới chém một đao, nhanh như tia chớp, chụp bắt Châu Tiên, không ngờ Châu Tiên biến mất, một tia chớp nổi lên, Tướng giặc kinh hoàng nhưng không còn kịp nữa, bị Châu Tiên chém rụng mất cánh tay, khiếp đảm quày ngựa bỏ chạy.

   Châu Tiên quát chạy đâu cho thoát, tức thời Tiên Kiếm phóng theo một tiếng rú thê thảm Tướng giặc bỏ mạng.
Kết cuộc xâm lăng mạng đi đời
Bỏ mạng sa trường thảm ghê nơi
Tham tàn bạo ác đời là thế
Trận địa vùi chôn xát thân phơi.

   Quân Văn Lang thắng thế ào ào xông lên đánh quân Hồ tơi tả, sợ con sa vào bẫy giặc bằng cho người đánh trống thu quân.

   Nói về Hồ Nghi Vương, đứng trên vọng đài thấy con là Hồ Bá Thi chết thê thảm, tức quá hét lên mau bắt tên yêu nữ kia cho ta.

   Hồ Mị Hoa, nói để con bằng phi thân xuống đài cỡi con Thần mã Bạch Long Câu, phi nhanh ra trận địa, Châu Tiên định tới chặt đầu Tướng giặc, thời nghe tiếng trống thâu quân, liền quay đầu ngựa trở lại. Bổng nghe trên không có tiếng quát nạp mạng đi tức thời một luồng kình phong ập xuống, nhanh như chớp Châu Tiên thúc ngựa né tránh, ầm ầm hai luồng chưởng đánh xuống không trúng Châu Tiên tạo hai cái hố. Châu Tiên thấy người đánh mình là một nữ Tướng xinh đẹp, tuổi xấp xỉ nhau không hơn không kém, Châu Tiên quát ngươi là ai sao đánh lén ta.

   Tướng nữ xuất hiện quát, ta sợ gì ngươi mà đánh lén, Châu Tiên quát, quân xâm lược kia tên họ là chi, mau rút quân về Bắc thời ta tha cho tội chết.

   Hồ Mị Hoa nói ngươi không xứng đáng hỏi tên ta, nói xong cô ta thúc ngựa lao tới thanh kiếm trên tay như Rồng bay Phụng múa, chém tới nhanh như tia chớp.

   Châu Tiên nào chịu thua kém, đôi kiếm trên tay như mưa sa bão táp, dồn dập tấn công liên miên, cánh Phụng tung bay phất phới, quần nhau càng lúc càng nhanh, kiếm qua kiếm lại rền vang trận địa.
Đúng là:
Một bên bão táp mưa sa
Một bên dông tố cuồng phong ầm ầm
Đánh nhau cát bụi mịt mù
Đánh nhau núi lở nghiêng đồi khiếp kinh
Châu Tiên hóa phép liên miên
Sấm rền trời đất, gươm Thiên khắp đầy
Mị Hoa càng đánh càng hay
Vung tay trời đất tối thui mịt mùng
Yêu tinh xuất hiện trùng trùng
Thét gào nhứt óc đùng đùng tấn công
Châu Tiên biết đánh không xong
Hóa ra một trận cuồng phong chạy dài
Thâu quân trở lại cung thành
Ngày đêm cố thủ chờ thời chuyển xây.

   Nói về Châu Tiên thấy yêu nữ quân giặc vô cùng lợi hại, khó mà đánh thắng được, bằng lui quân vào thành cố thủ, quân giặc đến khiêu chiến không ra nữa. Châu An cùng các Tướng lĩnh thấy quân Hồ như có điều chi khác lạ hình như là chuẩn bị cho sự tấn công quy mô, Tướng lĩnh Cao Khang nói tối nay nhất định quân Hồ tấn công Châu Thành ta, Châu Tiên cũng nghĩ như thế, nói với Châu An, cha hảy cho quân binh chủ động biết trước tối nay tử chiến với chúng.

   Quả đúng không sai bên vọng đài quân Hồ, đang tế lễ Hồ Nghi Vương, làm phép triệu tập yêu tinh, quỉ dữ, hàng trăm hàng nghìn, tối nay bay lên thành gây rối loạn quân binh, thời tức tốc đồng loạt tấn công chiếm lấy Châu Thành, vì đã chửng bị trước Châu Tiên ngửi có mùi yêu khí liền nói với cha hãy mau lên đài tế lễ cầu nguyện Anh Linh Đức Quốc Tổ, không còn chần chờ gì nữa.

   Bổng thấy trời đất tối mù tối mịt, cuồng phong nổi dậy ầm ầm, quân binh đốt lửa không được, cờ xí gãy đổ, lại nghe rào rào dưới chân thành, quan binh la hoảng quân Hồ leo tường tấn công, đốt lửa lên không được vì cuồng phong quá lớn, tiếng binh khí đã bắt đầu chạm nhau.

   Châu An bình tỉnh cầu nguyện Anh Linh Quốc Tổ, chiến trận đã nổ dòn, bổng trên hư không sấm sét nổi lên đánh xuống ầm ầm mây tan, gió tạnh, yêu tinh quỉ dữ, tan biến không còn, Quan quân đốt lửa sáng rực trời, thấy quân Hồ leo tường lớp lớp bằng ném đá, bắn tên, đổ dầu, phá hỏng các thang dây, quân Văn Lang chiến đấu anh dũng lợi thế có cung thành, một người có thể hạ gục năm mười tên, quân hồ chết thôi là chết, đánh tới sáng quân Hồ thiệt hại vô kể, quân Văn Lang thắng trận vẻ vang.

   Từ đó quân Hồ biết khó nuốt thành Kiến Châu, chỉ còn cách là bao vây, cho quân binh trong thành kiệt huệ lương thực rồi mới ra tay, chúng tản ra vơ vét của cải dân chúng, cắt đứt các ngã đường cứu viện tiếp viện.
Cha ông trở lại cõi trần
Cứu con cứu cháu thoát vòng tai ương
Miễn sao con cháu đừng quên
Cội Nguồn nhớ mãi hiển Linh đời đời.

   Đây nói về trên tần trời thứ hai, Đông Nam Thiên Cung, có vị Thiên Đế Ngọc Long, đã từng đầu thai xuống trần mở ra thời đại Kinh Dương Vương, lập lên nước Xích Quỷ, Giao Chỉ, câu chuyện như sau.

  Tiểu kiếp thứ 8 kết thúc, những người còn sống sót, trở thành thỉ tổ Hồng Hoang, đầu tiểu kiếp thứ 9, kiếp tăng, tuổi thọ thỉ tổ Hồng Hoang rất ngắn, trung bình chỉ 10 tuổi, thọ 20 tuổi, đại thọ 30 tuổi, yểu 1 tuổi. Cứ 100 năm tăng lên 1 tuổi, và tăng mãi cho đến khi tuổi thọ trung bình là 8 muôn 4 nghìn tuổi.

   Trải qua 8 triệu 4 trăm nghìn năm, tức là hết kiếp tăng đầu kiếp giảm, chuyển sang giai đoạn Hồng Bàng, và cứ 100 năm giảm xuống 1 tuổi, và giảm mãi xuống nhân loại con người tuổi thọ trung bình chỉ còn 30 nghìn tuổi, thời chuyển sang giai đoạn Hồng Chúa.

   Nhân loại con người tuổi thọ tiếp tục giảm xuống chỉ còn 10 nghìn tuổi, thời chuyển sang giai đoạn Hồng Đế, và giảm xuống tuổi thọ nhân loại trung bình chỉ còn 1 nghìn tuổi, thời đi vào giai đoạn cuối thời Hồng Đế, (giai đoạn Hồng Chúa, Hồng Đế, đều nằm trong niên đại Hồng Bàng).

   Giai đoạn cuối thời Hồng Đế kéo dài hàng chục nghìn năm. Đến thời Hồng Đế cuối cùng hạ sanh quí tử, khôi ngô tuấn tú, lớn lên thông minh, tài trí khác phàm, tên là Hồng Viêm, vì lúc Hồng Nương sắp sanh quý tử, liền thấy Thiên Thần đến lễ bái nói, Viêm Đế Thần Nông đầu thai xuống trần, mở ra thời đại mới, các Thiên Thần nói xong rồi biến mất. Hồng Nương sanh ra quý tử, Hồng Chúa liền đặc tên cho con là  Hồng Viêm.

   Hồng Viêm càng lớn càng thông minh kỳ lạ, trở thành Nhà Bác Học nông nghiệp, đầu tiên của niên đại Hồng Bàng, có công tôm gốp những giống lúa hoang dại (hay còn gọi là cỏ Trời) mọc theo đầm lầy, giống ngô khoai hoang dại mọc nơi đồi rừng. Lai tạo ra nhiều giống lúa thuần chủng, giống ngô khoai thuần chủng, cho năng xuất cao. Mở ra thời đại mới, thời đại văn minh của nền lúa nước, nông nghiệp ngô khoai. Đem lại sự no cơm ấm áo cho con người.

  Khi lên ngôi thay cha Hồng Viêm đổi niên hiệu, từ niên hiệu Hồng Đế, chuyển sang niên hiệu VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG, Quốc Tổ VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG Truyền xuống được 5 đời, tới đời thứ năm Viêm Đế Thần Nông. Đế Nương, một hôm ngủ say trong giất chiêm bao, thấy một con Rồng to lớn, bay tới gần bà rồi biến mất, sau đó thời mang thai. Đến ngày khai hoa nở nhị, thời trên bầu trời mây đen cuồn cuộn, hiện ra mây Rồng rồi mưa xuống một trận lớn, làm cho lúa ngô, khoai sắn, tươi tốt. Nên Viêm Đế Thần Nông đời thứ năm, đặc tên cho con là Đế Tôn Long Đế, Đế Tôn Long Đế, càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, dũng mãnh phi thường, có sức mạnh dời non lấp biển, khai phá đất đai rộng mở, đem lại sự phồn thịnh no cơm ấm áo cho người dân, dân chúng sùng kính vô cùng, lực lãm không ai bằng, nên dân chúng thường gọi Đế Tôn Long Đế là Đức Sùng Lãm. Đế Tôn Long Đế, Đức Sùng Lãm, lên ngôi thay cha trị vì thiên hạ, liền đổi niên hiệu. Từ niên hiệu Viêm Đế Thần Nông, chuyển sang niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG, Quốc Tổ KINH DƯƠNG VƯƠNG, truyền xuống được chín đời. Đến đời Kinh Dương Vương, đời thứ 9. Sau một chuyến tuần du nơi động Đình Hồ Kinh Dương Vương gặp Thần Long Nữ, Bộ Lạc Long Giao. Kết duyên phu phụ, thành vợ thành chồng. Một hôm Thần Long Nữ trong lúc mơ màng thấy chốn nhân gian mây đen cuồn cuộn yêu tinh quỷ dữ đầy trời, nhân loại lầm than khốn đốn, mất đi quyền sống, quyền tự do, quyền công bằng, quyền bình đẳng, ngục tù cùng khắp, cực hình thê thảm vô cùng. Đang trong lúc kinh hoàng sợ hãi, thời thấy một vị Chí Tôn Thiên Đế xuất hiện, tay cầm Thiên Ấn, tay cầm Thiên Bút, Thiên Bút biến mất, Thiên Ấn hóa thành Gươm Thiên Trí Huệ, phát ra ba đạo hào quang. Mỗi lần Gươm Thiên Trí Huệ vung lên, tức thời hàng loạt tiếng sấm nổi lên, vô số mặt trời hiện ra, yêu, tinh, quỉ dữ liền tan biến hết, bóng đêm chẳng còn, trời quang mây tạnh, muôn hoa đua nở, mùa xuân phơi phới, thái bình an lạc. Thần Long Nữ đem việc thấy kỳ lạ đó kể cho Kinh Dương Vương nghe, từ đó Thần Long Nữ mang thai. Đến ngày khai hoa nở nhị, thời hoa lan khắp nơi đều nở rộ, hương thơm khắp cả nước non, cọng thêm với điềm chiêm bao của Thần Long Nữ, một đấng anh hùng cái thế,  nên đặc tên cho con là Hùng Lan. Hùng Lan, lớn lên không những khôi ngô tuấn tú, mà Đạo Đức, trí huệ, có một không hai, có bốn Đức tính nổi bật mà ai cũng thấy, bốn Đức tính đó là Hùng - Bi - Trí - Đức, với bốn Đức tính nầy, tuy còn nhỏ nhưng đã vang danh thiên hạ. Khi Hùng Lan, lên ngôi trị vì thiên hạ thay cha, liền chuyển niên hiệu. Từ niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG. Chuyển sang niên hiệu HÙNG VƯƠNG, Niên đại HỒNG BÀNG,  chuyển sang niên đại ÂU LẠC, đổi tên nước từ nước XÍCH QUỶ, thành nước VĂN LANG. Mở màng văn hóa Cội Nguồn ra đời, trở thành nền Quốc Đạo đầu tiên của nhân loại. Giai đoạn  ĐỒNG BÀO, đoàn kết thống nhất, một 100 bộ lạc đều lấy chung một chữ VIỆT, gọi là Bách Việt, dân tộc Siêu Việt Anh Linh, nòi giống Rồng Tiên ra đời, nòi giống con Trời, thừa kế cơ nghiệp tạo hóa cha ông. Sau cuộc giao tranh với quân ÂU LẠC Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh, thua trận rút lui về phương Bắc bên kia sông Trường Giang, con gái của Đế Lai, là Đế Cơ Công Chúa, sắc nước hương trời, lại thêm pháp thuật thần thông cao cường,  chăng tằm dệt vải đều thông giỏi, tài Đức, công - dung - ngôn - hạnh, có một không hai chốn nhân gian. Đế Cơ Công Chúa, phi ngựa qua sông Trường Giang  thả mình vân du, lạc đến động Lăng Xương, xem hoa dạo cảnh. Tạo hóa xe duyên, gặp lúc Vua Hùng cũng đang vân du chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ, tạo hóa an bày hai người gặp nhau, rồi yêu nhau kết thành phu phụ, nên duyên chồng vợ. Về chung sống ở Phong Châu Nghĩa Lĩnh, Kinh Đô Văn Lang. Từ đó Nam Bắc sông Trường Giang, hai phương giao hòa Âu ca thịnh trị. Quốc Tổ Hùng Vương, cùng  Quốc Mẫu ăn ở ít lâu, sanh con đẻ cái, lập trưởng nam kế tục ngôi Vương, truyền xuống được 23 đời, gọi đó là thượng Hùng Vương. Hùng Vương đời thứ 23 không con, nên nhường ngôi cho con của em, là cháu dòng thứ Hùng Cừ, truyền xuống được 18 đời, gọi đó là hạ Hùng Vương. Vua Hùng Vương thứ 18 có con trai nhưng chết yểu lúc còn nhỏ, thành ra không có con trai kế vị. Nên nhường ngôi cho con rễ là Nguyển Tuấn, (tức là Tản Viên). Thục Phán là cháu thứ của Vua Hùng, làm Lạc Tướng ở Bộ Tây Vu Ai Lao, đem quân về tranh ngôi, Vua Hùng sợ máu thịt anh em tương tàn, nên đành nhường ngôi lại cho Thục Phán. Tản Viên, là Chúa của núi rừng, dẫn theo Mị Nương công chúa Ngọc Hoa, về núi sanh sống. Khi Thục Phán lên ngôi Vương, thời niên đại Hùng Vương, kéo dài 2701 năm kết thúc. Thục Phán lên ngôi Vương, chuyển đổi niên hiệu Hùng Vương, thành niên hiệu An Dương Vương. Chuyển đổi tên nước Văn Lang, thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Trị vì thiên hạ trên dưới 50 năm kết thúc thời Âu Lạc 258 trước công nguyên.

   Kể từ đây con cháu Tiên Rồng, như đi trong đêm, dẫn đến nô lệ phương Bắc, nước Văn Lang chỉ còn có một phần, Nam Văn Lang, còn Trung Văn Lang Bắc Văn Lang, thời đã thuộc về phương Bắc, chỉ còn  Nam Văn Lang mà sống cũng không yên, bị phương Bắc đô hộ xâm lược hết thời nầy sang thời khác, hầu nuốt trọn nước Văn Lang, nhưng nuốt mãi không được, vì Nam Văn Lang là đất Địa Linh, Địa Long Vũ Trụ, và kỳ tích xảy ra trên mảnh đất Địa Linh nầy.

   Đây nói về trên tần Trời thứ hai, Đông Nam Thiên Cung, có vị Thiên Đế Ngọc Long, đã từng đầu thai xuống trần, mở ra thời đại Kinh Dương Vương, khai lập lên nước Xích Quỷ. Giao Chỉ, QUỐC TỔ KINH DƯƠNG VƯƠNG,  Quốc Tổ Kinh Dương Vương, quy Tiên, bỏ lại xác phàm về Trời, ở Đông Nam Thiên Cung. Vì thương con dân nơi chốn trần gian, nên Quốc Tổ thường hiện về, dân chúng thường thấy trên bầu trời mây đen hình Rồng xuất hiện, thời những trận mưa trái mùa đổ xuống làm cho cây cối xanh tốt, ruộng nương trúng mùa. Những năm mây đen hình Rồng xuất hiện, là dân chúng no cơm ấm áo, chuyện kỳ lạ nầy thường xảy ra trên đất nước Văn Lang. Ở thời hạ Hùng Vương đời thứ 5, Hùng Hy Vương,( Viên Lang ) dân chúng thấy hồn Quốc Tổ Kinh Dương Vương, hiện về, xuất hiện mây ông khổng lồ, dấu chân ông bước tới đâu là in đến đó. Đám mây hiện hình người khổng lồ to lớn đó, thường xuất hiện nhiều nhất trên đất Đổng, nên dân chúng gọi là ông Đổng, hồn Tổ Tiên hiện về. Có lần dân chúng thấy hồn Quốc Tổ Kinh Dương Vương, Long Đế Sùng Lãm, hiện về, hiện thành đám mây ông Đổng cao lớn vô cùng, đầu đội trời, chân đạp đất, cao hơn mười ngọn núi, chỉ trong  một đêm mưa to gió lớn, ông cào đất thành ruộng, ông vun đất thành đồi, xẻ đất thành sông, bước chân ông dài từ đỉnh núi nầy sang đỉnh núi khác, dấu chân ông thủng cả đá, thủng cả đất, tiếng nói ông chính là sấm, mắt ông chớp lòa, phóng ra tia lửa, sét, hơi thở ông phun ra mây đen, gió bão và mưa dông. Linh Hồn Quốc Tổ, Long Đế Sùng Lãm, thường xuất hiện trong những mùa hè nắng hạn, dân chúng cần nước, tưới cho ngô, khoai, lúa, đậu, ông đi lúc xoáy tròn, lúc đi thẳng, đi hết nơi nầy đến nơi khác, từ Đông sang Tây. Ngày nay vẩn còn thấy dấu chân Long Đế Sùng Lãm, còn in lại khắp nơi. Nói về Long Đế Sùng Lãm, Quốc Tổ, đang ngự tại cung Đông Nam Thiên, ở trên Trời. Bổng có một trận gió lạ, thời biết là Thiên Ý Cha Trời chỉ giáo điều gì, liền co tay bấm ấn, mở con mắt Thiên Nhãn nhìn xuống chốn nhân gian, thời thấy rõ nước Văn Lang đang lâm nạn, nguy cơ  đến nơi. Khí số Văn Lang vẩn còn chưa mất, vẩn còn kéo dài hơn mấy trăm năm nữa. Liền triệu tập Thiên Tướng, nói rõ nguy cơ nước Văn Lang. Long Đế nói. Khí số Văn Lang còn dài  hơn mấy trăm năm nữa, chúng ta hãy đầu thai xuống chốn trần gian, đánh lũ giặc Ân, đi ngược lại Ý Trời, làm hại đất nước Văn Lang, các Thiên Tướng mở con mắt Thiên Nhãn đều thấy rõ như thế, nguy cơ nước Văn Lang sắp mất đến nơi. Các Thiên Tướng cùng Long Đế, tức tốc xuất hồn ra khỏi thể xác kim thân, linh hồn bay xuống chốn trần gian đầu thai làm người phàm tục, đánh giặc Ân.
                                
BÀY MƯU HIẾN KẾ

   Đây nói về hai anh em Nguyên Dực và Nguyên Minh, thống lãnh 40 vạn quân, tiến về Bắc Văn Lang dẹp nội loạn nổi lên đòi tự trị làm hổn loạn Bắc Văn Lang, cũng như chống trả lại quân xâm lược.

   Khi 40 vạn quân chủ lực Văn Lang đến Vân Châu,  thời chia làm hai lực lượng. Nguyên Dực thống lãnh 20 vạn quân tiến thẳng về Ninh Châu. Còn Nguyên Minh thống lãnh 20 vạn quân tiến thẳng về  Hợp Châu.

   Nói về Ninh Giao Châu, có Quan Châu Phủ Lạc Đại Vương, cùng các Quan trấn giữ Châu Thành. Ngày nào cũng có tin báo dập dồn khẩn cấp, quân Ân đã tiến đánh Kinh Giao Châu, tiêu diệt hơn một vạn quân Văn Lang ở Huyện Giao Trung, Lạc Đô Tướng bỏ mạng tại sa trường, và đã chiếm được thành Kinh Châu. Lạc Đại Vương cùng các Quan không khỏi kinh hãi, lo lắng cho số phận Ninh Châu, than rằng:
Chỉ lo chạy chọt Quan quyền
Ăn chơi phè phởn đảo điên nước nhà
Đến khi có giặc can qua
Co đầu rụt cổ còn ra thống gì
Lòng dân đã mất chí nguy
Cơ đồ sự nghiệp khó mong vững bền.

    Lạc Đại Vương, cùng các Quan đến bây giờ mới thấm thía. Dân là nước, nước ô nhiễm độc hại văn hóa phương Bắc, thời cá phải chết. Dân là gốc, nhưng gốc đã mục nát, dân tình trở nên loạn lạc, thời thân cành, nhánh lá Vương Quan cũng đi đời, nhưng tất cả đều đã muộn. Chỉ còn trông chờ cứu tinh xuất hiện, thời may ra vận nước mới thoát qua cơn hiểm họa nầy.

   Lạc Đại Vương cùng các Quan chưa biết xoay trở bằng cách nào, chửng bị cho tình huấn xấu nhất. Thời có quân vào báo.

   Bẩm Đại Vương, quân chủ lực Văn Lang đã đến, Lạc Đại Vương cùng các Quan mừng quá, thốt lên cứu tinh đã đến rồi, Lạc Đại Vương hỏi quân chủ lực đến đâu rồi? Quân binh đáp, quân chủ lực còn cách đây vài ba dặm, Lạc Đại Vương cùng các Quan ra khỏi thành tiếp đón quân chủ lực Văn  Lang.

   Đi được hơn năm dặm thời thấy quân Văn Lang cờ xí rợp trời, gươm đao sáng giới, kỵ binh, xa binh, xạ binh, giáp binh, rầm rầm rộ rộ khói bụi mịt mù, khí thế hừng hực, thời lấy làm vui sướng, như người sắp chết đuối mà gặp Cứu Tinh. Đi đầu có rất nhiều Tướng lĩnh, mỗi người mỗi vẻ oai phong lẩm lẩm, có một Tướng lĩnh nổi trội hơn hết, mặt sáng như sao, vô cùng oai phong, đó là Tướng soái Nguyên Dực. Nguyên Dực thấy Lạc Đại Vương cùng các Quan đến tiếp đón mình, thời lấy làm vừa lòng.

   Lạc Đại Vương cùng các Tướng đến ra mắt thi lễ chào hỏi nói rằng.

    Hạ Quan nghinh tiếp hơi trể xin Tướng Soái tha lỗi cho, Nguyên Dực thi lễ nói không sao không sao, miễn có ra đón là được rồi.

   Lạc Đại Vương đi đầu dẫn đường gần đến Ninh Thành thời đại quân dừng lại đóng trại gần đó, cách Ninh Thành hơn dặm. Tướng Soái Nguyên Dực cùng các Tướng, được Lạc Đại Vương tiếp đón vào thành, thiết đải trọng hậu, đàn ca múa hát, món ngon vật lạ, chẳng thiếu thứ chi.

   Nguyên Dực thưởng thức các món ngon vật lạ khen,  tiếng đồn quả không sai Bắc Văn Lang thứ gì cũng có,  thảo nào quân giặc thèm khác lúc nào cũng muốn chiếm lấy Bắc Văn Lang. Lạc Đại Vương nói, lời nói của Tướng Soái quả không sai, đây chỉ là đặc sản của vùng Ninh Châu nầy, còn những nơi khác phải nói là vô cùng phong phú, nhất là vùng lân cận Kinh Đô, thời phải nói là trù phú vô cùng, không có món ngon vật lạ hiếm quý nào mà không có, kể cả chim trĩ trắng, gà chín cựa, sâm nghìn năm, chồn hương chín đuôi, còn không biết bao nhiêu là món ngon hiếm quý nữa.

   Tiệc đải xong xuôi qua ngày hôm sau, Nguyên Dực cùng các Tướng nghe báo cáo tình hình Bắc Văn Lang, cũng như tình hình quân xâm lược. Lạc Đại Vương đọc bản báo cáo, trong bản báo cáo nói như sau.

   Bẩm Tướng Soái: tình hình Bắc Văn Lang vô cùng nghiêm trọng, không những nghiêm trọng về nội loạn, các Bộ Lạc Bách Việt nổi lên đòi tự trị, vì thế Bắc Văn Lang chia năm xẻ bảy tranh giành quyền lực dẫn đến thôn tính lẩn nhau, xưng Vua, xưng Chúa, từng vùng tự trị theo kiểu phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà cũng xưng Vua. Có thể nói văn hóa phương Bắc đã làm hại phương Nam chúng ta, tình thế nầy khó mà cứu vãn cho được,  nghe nói văn hóa Văn Lang chúng ta đã mất gốc, lại không truyền xuống dân, chỉ truyền trong Vương Quan, thừa kế cơ nghiệp ông cha, nên dân chúng ít người được biết về văn hóa Cội Nguồn, nếu dân biết thời còn tai hại hơn nữa.

   Vì văn hóa Cội Nguồn không có sự độc tài, độc trị,  chỉ lấy, Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, công bằng bình đẳng trị Quốc mà thôi, phải nói không còn phù hợp với tình hình hiện nay, mà tình hình hiện nay là sống theo chế độ độc quyền, độc tài, độc trị, ý Vua là ý Trời, không ai dám cải, cải lại thời bị tru di tam tộc, còn phương Bắc tru di cửu tộc. Thể chế độc quyền lần lần ăn sâu vào tâm hồn, không những Vua, Quan, như chúng tôi, mà còn ngay cả những người dân, không còn cách nào khác là thuận theo số phận mà thôi. Phương Nam chúng ta dần dần đi theo chiều hướng phương Bắc, nên mới có cảnh Bách Việt Văn Lang nổi lên đòi tự trị, theo xu thế phương Bắc, còn Nam Văn Lang thời chưa xảy ra điều đó, có lẽ là chưa ảnh hưởng gì văn hóa tự trị phương Bắc, nên chưa có sự nội loạn tình hình dân chúng phương Bắc Văn Lang là như thế. Còn về tình hình cấp bách hiện nay.

   Trước tình thế quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô, chúng càn qua Bắc Văn Lang như thác đổ, với một thời gian ngắn, chúng nuốt không biết bao nhiêu là Châu, Quận, Huyện, giết chết hơn mười mấy Vua Việt nổi lên đòi tự trị, Nguyên Dực cắt ngang lời báo cáo nói.

  Đây cũng là điều may cho chúng ta, ngoại xâm tiêu diệt nội loạn thay cho chúng ta, chúng ta không cần ra tay, kể như chúng ta đã thành công ở bước một,  Nguyên Dực nói ông đọc tiếp đi.

   Lạc Đại Vương với giọng rõ ràng đọc tiếp báo cáo rằng, Theo tin tức báo cáo.

    Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, chia làm ba mũi tấn công Bắc Văn Lang, quân Hồ đánh theo Tây Lộ,  quân Hung Nô đánh theo Đông Lộ, quân Ân đánh theo Trung Lộ,  trong ba thế lực ấy quân Ân là mạnh nhất,
Tuy chia làm ba mũi nhưng chúng luôn luôn hổ trợ cho nhau lúc cần thiết, vì thế chúng đánh chiếm các Châu Phủ một cách dễ dàng.

   Theo tin báo thời giặc Ân đang bao vây Kinh Đô, giặc Hung Nô đang đánh phá Xích Linh Châu. Quân Hồ đang đánh phá Kiến Châu. Quân Ân phong tỏa cắt đứt những huyết mạch  các Châu Thành liên kết với Kinh Đô. Phải nói tình hình hết sức là nguy cấp nếu chúng chiếm được Kinh Đô, chiếm được Xích Linh Giao Châu, chiếm được Kinh Châu, thời coi như chúng chiếm được Bắc Văn Lang, đọc xong bản báo cáo.

   Lạc Đại Vương nói thêm, như tin dò thám được thời Kinh Châu đã thất thủ. Nguyên Dực, cũng như các Tướng chủ lực quân Văn Lang nghe qua bản báo cáo như thế thời không khỏi lấy làm kinh hãi. Trước sức mạnh như vũ bão của quân xâm lược.
Đời sau thơ kể lại rằng:
Sức mạnh quân thù thật gớm  ghê
Như cơn Hồng thủy cuộn tràn về
Thành trì sụp đổ trong chốc lác
Sanh Linh vùi dập thật thảm thê.

   Đang lúc bàn về quân giặc, thời có quân thám báo về báo Nói nhỏ với Lạc Đại Vương. Lạc Đại Vương nghe xong rồi dặn tiếp tục theo dõi động tỉnh của quân Ân. Nguyên Dực  hỏi có chuyện gì thế có thể đem ra bàn được không?

   Lạc Vương nói có tin báo là quân Ân tiến đánh thành Ninh Châu chúng ta, tin rất chính xác. Nguyên Dực hỏi, quân Ân chúng sẽ đi theo đường nào tiến đánh Ninh Châu chúng ta.

   Lạc Đại Vương nói, Kinh Châu đến Ninh Châu hơn 100 dặm qua sông, suối, đồi, gò cũng nhiều, đường đi qua nhiều khúc quanh rậm rạp. Theo nhận xét của Đại Vương tôi, với khí thế mạnh như vũ bão của giặc thời giặc không sợ gì cả, đường nào gần nhất dễ đi nhất là chúng đi. Tôi tin chắc là quân Ân đi theo đường tắc dễ đi nhất, chỉ có một đoạn đường hiểm yếu, đó là chúng phải băng qua cánh đồng lớn, rồi đến đồi Vạn Lâm, đồi nầy kéo dài hơn 10 dặm cây cối rậm rạp, đồi Vạn Lâm cách đây gần 50 dặm, nếu chúng qua khỏi đồi Vạn Lâm thời không đầy một ngày đại binh chúng sẽ kéo đến, còn kỵ binh thì chỉ cần một ngày là đến nơi.

    Nguyên Dực hỏi quân binh trong thành nầy được bao nhiêu?

   Lạc Đại Vương thưa, bẩm Tướng Soái hiện giờ hơn một vạn quân, phần nhiều do quân binh các Châu Phủ khác thua trận chạy đến đây. Từ đầu đến cuối cuộc hợp, có một vị quan lúc nào cũng yên lặng, đó là Hầu Thái Công, tuy tuổi đã lớn nhưng được gọi là bậc mưu Thần bậc nhất ở Ninh Châu.

   Đến lúc nầy Hầu Thái Công  mới lên tiếng. Chúng ta có thể tiêu diệt được giặc Ân ở đồi Vạn Lâm nầy. Chúng tiến qua đất Văn Lang, như tiến vào chỗ không người, đánh chiếm các Châu Thành một cách dễ dàng, vì thế chúng sẽ không coi quân lực Văn Lang vào đâu nữa, ung dung mà tiến qua đồi Vạn Lâm. Chúng sẽ cho quân mở đường đi trước, đó chưa phải là quân chủ lực, nếu có quân mai phục chận đánh, thời chúng tỏa ra bao vây đồi Vạn Lâm rồi tìm kế tiêu diệt chúng ta. Theo thời tiết hiện giờ thời ta không sợ hỏa công vì trời hay mưa, cây cối luôn ẩm ước, chúng ta có thể an tâm mà mai phục nơi đồi Vạn Lâm nầy, cứ để cho đội quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực loạt vào vòng vây là tấn công. Quân ta chủ động, quân giặc bị động, chỉ cần ba vạn quân lựa vào những chỗ hiểm yếu phục kích, lợi thế tấn công, cũng đánh tiêu mười vạn quân của chúng.

KINH CHÂU THẤT THỦ
  
   Lại nói về quân Ân sau khi đánh bại quân Văn Lang ở Huyện Giao Trung, tiến tới bao vây Kinh Châu, kết hợp với quân Hồ, đánh chiếm Kinh Châu một cách dễ dàng, vì Kinh Châu chỉ còn có hơn năm nghìn quân, không phải là quân chủ lực, quân Ân, quân Hồ, chiếm Kinh Châu như lấy đồ trong túi, chẳng tốn bao nhiêu sức lực, quân Ân làm phép cuồng phong nổi lên, quân binh trong thành kinh hồn bạc vía, quân Ân làm phép yêu tinh quỉ dữ bay lên thành gào thét tấn công, quân binh hổn loạn, quân Hồ leo tường nhanh như chớp, quân Ân phá cổng thành, chỉ trong chốc lác quân Ân, quân Hồ, tràn ngập vào thành. Kinh Châu thất thủ.

   Vị tướng nữ thống lĩnh chỉ huy quân Ân, là Sát Sát  không những võ nghệ cao cường thần thông pháp thuật ít ai sánh nổi, mà còn đa mưu túc trí, ít ai bì kịp, Sát Sát là vợ chính của Ân Mao Vương, thống lãnh hơn 10 vạn quân tinh nhuệ, quân chủ lực, nhất là đội quân kỵ binh, đội quân xạ binh, di chuyển nhanh chóng lợi hại vô cùng, chiếm được thành Kinh Châu, Sát Sát báo tin thắng trận cho Ân Mao Vương, lên kế sách tiến đánh thành Ninh Châu, Sát Sát đang cùng các Tướng lĩnh bàn bạc lên phương án tiến đánh thành Ninh Châu.

   Thời có một con yêu tinh vào báo. Bẩm Nương Nương: Quân chủ lực Văn Lang đã đến Ninh Châu, quân binh đông như kiến, ước lượng trên  dưới 20 vạn quân. Tướng lĩnh quân Hồ, là Hồ Nam Quân nói chúng có 20 vạn quân chủ lực, hai lực lượng chúng ta kết hợp lại cũng trên 15 vạn quân, hơn kém bấy nhiêu thời có đáng gì, chỉ cần quân binh tinh nhuệ, tuy ít nhưng cũng chẳng kém gì nhiều.

   Sát Sát trợn mắt nói chúng kéo đến là may cho ta, khỏi mất công tìm chúng thanh toán. Rồi ra lịnh cho Phong Yêu và Quỉ Yêu, tàn hình đến Ninh Châu xem chúng bàn những gì. Phong Yêu và Quỉ Yêu, bay lên không biến mất. Đây nói về Phong Yêu và Quỉ Yêu, được lệnh Nương Nương bay tốc hành đến Ninh Châu, ẩn mình vào thành nghe lén quân Văn Lang bàn những gì.

   Nói về nguyên Dực, cùng các quan Tướng Ninh Châu bàn luận sôi nổi, về kế sách chuyến thuật tiêu diệt quân giặc, nào hay đâu có kẻ tàn hình ẩn núp gần đó nghe lén Hầu Thái Công hiến kế.

   Quân Ân thế nào cũng đi qua đồi Vạn Lâm. Chúng ta cho ba vạn quân mai phục những chỗ trong yếu nơi đây, để cho quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực tiến sâu vào ổ mai phục thời ra tay. Lại cho năm vạn quân nhanh chóng đi bọc về hướng Đông Bắc qua khỏi đồi Vạn Lâm hơn 10 dặm phục kích ở xa để cho quân giặc tiến sâu vào đồi Vạn Lâm thời mới duy chuyển quân binh chận đường rút lui của chúng mà đánh, còn đại quân của ta đi bọc về hướng Tây chận đứng đường tháo chạy của chúng, rồi tiến nhanh vào thành lấy lại thành Kinh Châu. Về vận chuyển lương thực thời do quân Ninh Châu đảm nhiệm, Tướng Soái Nguyên Dực, cho đây là kế sách hay,  bằng thi hành theo kế sách nầy. Hai con quỉ nghe xong liền tức tốc bay trở về Kinh Châu báo cho Sát Sát Nương Nương biết.
Sau có thơ rằng:
Cơ mưu bại lộ nào có hay
Ra sức điều quân bố trận bày
Rồng cọp vô tình sa bẫy lưới
Vận nước còn đen khó đổi thay
Kế sách mưu Thần đánh giặc Ân
Nào hay bại lộ kế mưu hay
Tự mình dẩn xác vào chỗ chết
Trận địa vùi chôn thê thảm thay.

   Trong binh pháp hai bên đánh nhau, nếu bên nào bại lộ cơ mưu, thời coi như đã bị thua, nói gì đến chiến thắng. Quân giặc tương kế, tựu kế, mà không hay biết gì cả, đến khi thất bại thời mới hổi ôi, chưa nói đến sự nghi ngờ lẫn nhau trong các Quan Tướng, làm suy giảm sức mạnh của chiến đấu, suy giảm sức mạnh của của thống nhất, hợp lực chống quân thù.

   Nói về Sát Sát nắm bắt được thông tin bí mật của quân Văn Lang. Liền tức tốc hành động, đi trước một nước cờ điều khiển quân binh theo ý đồ của mình. Sát Sát bàn với Hồ Man Quân Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân Hồ, đến Huyện Ninh Điền chọn nơi hiểm yếu phục kích, chờ cho quân Văn Lang đánh bọc hậu đi tới sa vào ổ phục kích là tấn công ngay. Võ Vu, Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân thống lãnh ba vạn quân, nhanh chóng đến đồi Vạn Lâm trước quân Văn Lang kéo đến phục kích. Khi quân Văn Lang đi sâu vào đồi Vạn Lâm, chưa kịp tản ra phục kích thời tiêu diệt ngay, làm cho chúng không kịp trở tay.

   Hổ Tiên Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân dẫn theo năm nghìn kỵ binh nhanh chóng vượt qua hàng chục dặm đánh bọc hậu từ sau đánh tới, cướp lấy lương thực của chúng, cũng như chận đánh quân hoảng loạn tháo chạy quân Văn Lang. Còn ta thời thống lãnh 8 vạn quân chận đánh quân chủ lực tại Tây Bắc Sơn Ninh Châu chận đánh quân chủ lực Văn Lang. 
                                
TRIỂN KHAI LỰC LƯỢNG

    Đây nói về Nguyên Dực cùng các Tướng hợp bàn kế sách chống giặc, thực hiện theo kế sách của. Hầu Thái Công,  thông tin cuối cùng về quân giặc, không ngờ bị quân Ân đánh lừa thông tin, là quân Ân còn án binh bất động chưa tiến đánh Ninh Châu, nhưng thật ra quân Ân đã bí mật triển khai điều động quân binh rồi, vì sao quân Văn Lang lại không phát hiện được, vì dân chúng lúc nầy, hổn loạn, lo tìm đường lánh nạn, tiến về Nam tránh quân xâm lược, nên quân Văn Lang khó phát hiện điều quân bí mật của quân Ân.

   Được thông tin quân Ân vẩn án binh bất động, chưa triển khai lực lượng, tiến đánh Ninh Châu, Tướng Soái Nguyên Dực trở về doanh trại, điều khiển quân binh, theo kế sách đã dự định.

   Hầu Tướng Quân nghe lịnh, có thuộc hạ, tướng quân thống lĩnh 5 vạn quân tức tốc lên đường trong đêm nay đến đồi Vạn Lâm theo sự chỉ dẫn quân Ninh Châu, trước khi trời sáng, để tránh tai mắt quân Ân phát hiện, phân bổ lực lượng những chổ trong yếu phục kích kín đáo, để cho quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực đi sâu vào ổ phục kích rồi ra hiệu lịnh cho quân binh đồng loạt tấn công, tuân lịnh.

   Việt Luân Tướng Quân, nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân thống lãnh 5 vạn quân bọc theo hướng Đông Bắc, đi trong đêm vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm chừng hơn 15 dặm ẩn náu, không cho địch phát hiện, khi địch đi qua khỏi thời đưa quân đến chận đường rút lui, tiêu diệt chúng, tuân lịnh.
Bạch Tướng Quân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân dẫn theo năm nghìn quân đi theo đoàn quân vận chuyển lương thực khi nghe có trận giao chiến thời thần tốc tiến về đồi Vạn Lâm trợ lực cho quân ta, tuân lịnh:
Chồn cáo thi nhau cướp giang sang
Mưu mô xão quyệt mấy vạn ngàn
Hung tàn bạo ác ăn uống máu
Chúng dày, chúng xéo nát ruột gan
Dân lành khốn khổ biết bao
Chúng đâm chúng chém thây phơi khắp cùng
Ngoại xâm lũ giặc bạo tàn
Chúng vơ chúng vét xốm làng còn chi.

   Đây nói về Tướng Soái Nguyên Minh, thống lãnh 20 vạn quân chủ lực từ Vân Châu tiền về Kinh Đô, Nam Kinh Xích Quỷ, đến Huyện Nam Giao thời thấy dân chúng thi nhau chạy giặc, một cảnh tượng vô cùng thê thảm.
Đời sau có kể lại rằng:
Chết đói đầy đường thê thảm thay
Cái lạnh trùm lên cắt thịt da
Kêu gào thê thảm con tìm mẹ
Đau buồn ức nghẹn con lạc cha.

   Trong tình cảnh nầy, Quan Tướng Văn Lang đau xót vô cùng, nhìn cảnh mẹ dắt con mặt mày bơ phờ chạy theo đoàn người tỵ nạn, không biết bao nhiêu chết đói, những cảnh tượng khốn đốn ấy không ai là không căm phẩn quân thù xâm lược.
Vận nước suy do Nguồn Cội mất
Nạn khắp cùng khó thoát tai ương
Nghĩ đời càng nghĩ càng thương
Cũng vì lạc Cội ngoại xâm hoành hành
Gươm Trấn Quốc đâu còn biến mất
Nghĩa đồng bào tan nát loạn li
Truyền thống tốt đẹp quên đi
Làm sao tránh khỏi ngoại xâm quét càn
Lòng mê muội học đòi phương Bắc
Giặc chuyển xây họa khắp nước non
Mắt mưu gian kế Bắc phương
Dã tâm xâm lược còn chi nước nhà

Nền Văn Hiến tôn thờ gìn giữ
Thời lo chi lũ giặc ngoại xâm
Con đường dân chủ trống không
Độc tài phải chịu nát tan cơ đồ

Cây mất gốc héo cành héo ngọn
Sông không nguồn sông cạn sông khô
Mê lầm văn hóa ngoại ban
Hồn linh nô lệ còn chi giống nòi

Dân lạc Cội dân tình xơ xác
Nạn vần xoay chết chóc điêu linh
Chia năm xẻ bảy còn chi
Làm mồi cho giặc nuốt thời béo no

Mất truyền thống tan hoang nghiệp Tổ
Đời lệ nô bể khổ chất chồng
Mất Nguồn, mất Cội cha ông
Nước non, non nước, chất chồng nạn tai.
                                
   Nói về Tướng Soái Nguyên Minh cũng hiểu được phần nào tình hình Bắc Văn Lang, vì ảnh hưởng quá nhiều văn hóa, cầu cạnh, xin xăm, bói quẻ, nhập đồng, nhập bóng,  đoán nầy, đoán kia, mê hoặc bỡi yêu, tinh, ma, quỉ, ứng nhập vào, lung lạc, lòng mê muội của dân chúng, ứng quẻ, lời dạy bảo của thần linh, ông nầy làm Vua, bà kia làm Chúa, tin theo, làm theo, nổi lên đòi tự trị theo phương Bắc, chỉ cần vài trăm nóc nhà cũng xưng Vua, Vua nầy thôn tính Vua kia, Vua kia thôn tính Vua nọ làm rối loạn Bắc Văn Lang.

   Tạo ra thời cơ xâm lược những tay tham tàn bạo ác phương Bắc, hậu quả là không sao cứu vãn được. Tướng Soái, Nguyên Minh, cho quân tạm dừng nghĩ, vì còn cách Kinh Đô không bao xa, cho người thám thính tình hình của giặc. Không bao lâu thời quân thám thính về báo, quân Ân đóng dinh trại cách Kinh Đô không xa, chúng dựng lên một đài quan sát rất cao sáu bảy tần, để quan sát động tỉnh trên 20 dặm, có lẽ chúng đã thấy quân binh chúng ta đã tiến đến đây, nhưng không thấy chúng động tỉnh gì.

   Nguyên Minh dừng quân nghĩ không bao lâu thời có quân vào báo, các Châu hổ trợ quân binh tham chiến, Nguyên Minh mừng rở hỏi được bao nhiêu, bẩm Tướng Soái, hơn năm vạn, các Châu Phủ còn hổ trợ lương thực, Nguyên Minh hết sức an tâm về cuộc chiến nầy.

   Nguyên Minh chưa biết phải đóng quân tại đâu, thời có người vào báo, có vị Đại Quan muốn gặp Tướng Soái, Nguyên Minh hỏi ông ta là ai, bổng có người lên tiếng hỏi tiếp, có phải ông ta là Đa Kế không? vị Quan binh kinh ngạc nói sao ngài biết, ông ta vui mừng trả lời được người đó tới giúp thời lo gì không thắng được giặc Ân.   Đa Kế là vị Quan thanh liêm tinh thông Binh Pháp, thích sống ẩn dật, có lẽ không thể ngồi yên khi vận nước sắp rơi vào tay quân giặc. Vị Quan biết Đa Kế đó là ai vậy,  còn ai vào đó nữa, chính là Lạc Hầu Công, từ Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, vào Kinh Đô Văn Lang cầu cứu viện binh.

   Nguyên Minh, nghe Lạc Hầu Công khen ngợi người đó như thế liền cho mời vào. Nguyên Minh thấy Đa Kế là người dị tướng, biết ngay là người có tài hay, liền tiếp đón mời ngồi. Nguyên Minh hỏi nghe  ngài tinh thông lục kinh lời đồn có đúng chăng?

   Đa Kế  khiêm tốn nói may mắn tôi có đọc qua, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Luân, ở vào thời đại đó mà biết nhiều hiểu rộng như vậy,  quả đúng là dị nhân. Nguyên Minh hỏi có kế sách gì chống trả lại quân Ân không?

   Đa Kế khoang nói đến chuyện đó vội, mà tìm nơi lợi thế để đóng quân, quân địch muốn đánh ta cũng khó theo tôi thấy Huyện An Giao, Huyện Long Giao là hai nơi đóng quân tốt nhất, một nơi gần quân Ân, một nơi xa quân Ân, ta chia hai lực lượng, hổ trợ nhau liên kết bảo vệ nhau, không cho địch biết sức mạnh của ta, chúng ta hoạt động một mặt nổi một mặt chìm, một hành động bí mật, một hành động công khai, có như thế mới đánh thắng chúng được, hiệu quả chiến thắng quân thù, phần lớn là những kế sách bất ngờ,  ai chủ động cuộc chiến người đó thắng.

   Nguyên Minh bằng nghe theo kế sách của Đa Kế, chia hai lực lượng, một nữa âm thầm đến huyện An Giao, một nữa rầm rộ  đến huyện Long Giao.

   Nói về hơn 10 vạn quân rầm rộ kéo đến Huyện Long Giao, không xa danh trại quân Ân là mấy, dựng doanh trại theo ngũ hành trận, Đông - Tây - Nam - Bắc - Trung Ương,  lại cho dựng quan sát đài cao năm tần không thua kém gì quân Ân.
Họa nào hơn bằng họa xâm lược
Khổ nào hơn nước mất nhà tan
Buồn nào hơn nổi buồn nô lệ
Cảnh ngục tù, đánh đập lầm thang.

   Đây nói về quân Ân bao vây Kinh Đô hơn ba tháng, trong không thể ra ngoài không không thể vào, cắt đứt mọi thông tin liên lạc, lương thực cạn kiệt lần, theo tình hình nầy giặc không đánh cũng tự thua, đầu hàng cũng chết, không đầu hàng cũng chết, phải nói lúc nào cũng ngồi trên đống lửa, các Tướng không còn giữ bình tỉnh được nữa. Lạc Cao Giang nói, con cháu Tiên Rồng có chết thời chết cho vinh quang, không thể chết đói, hay chết cuối đầu trước quân giặc được, để tôi ra giết chúng một trận cho đã tay rồi chết cũng được.

   Hầu Việt Yên cũng nói, tôi cũng thế để tôi ra trận quyết một trận sanh tử với chúng, có chết cũng cam. Trong lúc đắng đo suy nghĩ thời có quân trên thành vào báo, có lẽ quân cứu viện chủ lực quân Văn Lang đã đến, cách Kinh Thành không xa, về hướng Nam, đóng trại tại Huyện Long Giao.

   Hùng Lang Công, cùng các Quan Tướng Kinh Thành,  nghe tin nầy như cây chết héo lâu ngày gặp nước, như người chết đuối gặp phao, tất cả đều kéo lên Thành xem có đúng là sự thật không, quả đúng như vậy xa xa cờ xí quân Văn Lang rợp trời rợp đất.

   Hùng Lang Công cùng các Tướng như muốn ngặt thở trước tin vui nầy, các Tướng hét lên chúng ta có quân cứu viện rồi, chửng bị tử chiến với quân xâm lược, vui sướng quá.
Luồng gió hồi sanh đã đến rồi
Lòng đầy vui sướng tận chân trời
Văn Lang chủ lực quân đã đến
Niềm tin chiến thắng dậy trong tôi.
             
   Nói về quân Ân, bao vây Kinh Đô không đánh cũng thắng, đó là điều hiển nhiên không chối cải vào đâu được, nếu không có quân chủ lực Văn Lang đến cứu. Ân Mao Vương, cùng Nương Nương là Nghịch Phong, đang lên kế sách đánh chiếm luôn nước Văn Lang,  không phải là Bắc Văn Lang nữa. Với mộng xâm lược, lòng tham vô bờ biến, chúng quá hiểu rõ nước Văn Lang vô cùng rộng lớn, chỉ cần một Châu cũng bằng một nước lớn ở phương Bắc, đất đai trù phú , nông sản, thủy sản, lâm sản , không làm gì cho hết,  nhất là ngành đồng, thau, sắt, thép, không có một đất nước nào bằng, chỉ cần chiếm lấy được nước Văn Lang thời coi như đã đến cực đỉnh, của sự xưng hùng xưng bá, chỉ trong vòng mấy trăm năm mà dân số tăng lên đông không kém gì phương Bắc.

   Ân Mao Vương, coi nước Văn Lang sắp thuộc về mình, thứ nhất là có quân Hồ, quân Hung Nô, thứ hai nước Văn Lang tình hình dân chúng bất mãn, lòng dân không bằng lòng cách cư xử Vương Quan đối với dân, bất hòa, dân không cùng chung chí hướng, bất ổn, dân tình luôn xáo trộn không yên, bất thường, dân chúng không lập trường, thường nghe lời xúi dục, bất trị không thể dạy dỗ theo ý của mình, dân chúng nổi lên đòi tự trị như đã thấy, bất đồng không cùng chí hướng, chia năm xẻ bảy, bất trắc,  không lường trước được sự việc, có thể nói là bất lực trước tình hình của đất nước.

   Đây chính là cơ hội cho ta thôn tính nước Văn Lang,  đánh bại quân chủ lực Văn Lang. Ân Mao Vương, đang hứng chí với mộng bá Vương Chúa Tể  của mình, thời có quân vào báo.

   Bẩm Chúa Vương, quân thám báo đưa tin là quân chủ lực Văn Lang, từ Kinh Đô Văn Lang đã đến Huyện Nam Giao, Ân Mao Vương tức thời triệu tập các Tướng Lĩnh xa gần trấn thủ khắp nơi, về  hội hợp bàn kế sách tiêu diệt quân Văn Lang, thông tin nhanh chóng được ban ra, không bao lâu thời các tướng lĩnh đến đầy đủ. Mao Vương nói quân Văn Lang đã tiến đến gần sát chúng ta, chỉ còn hơn bốn mươi dặm, hãy điều động toàn lực lượng bao vây tấn công chúng. Hồ Ma can chưa cần đánh vội như thế, tuy biết rằng quân chủ lực Văn Lang từ xa xôi hơn một nghìn mấy trăm dặm kéo đến đây, thời quân binh đã mõi mệt, chận đánh là ưu thế thuộc về ta.

   Nhưng xét lại thời chưa hợp lẽ, vì quân Văn Lang phát xuất lên đường từ lâu, hơn cả tháng, nay chúng mới tới đây, chúng di chuyển quân đi rất chậm, luôn luôn cũng cố sức mạnh của quân binh, như vậy chúng đã chuẩn bị trước sự tấn công của chúng ta, hơn nữa chúng ta chưa nắm bắt được lực lượng quân Văn Lang là bao nhiêu, chúng ta chỉ cần cũng cố lực lượng đối mặc với sự tấn công của quân Văn Lang, Ân Vương nghe Hồ Ma nói cũng có lý liền theo kế sách của Hồ Ma.

   Không bao lâu thời có quân vào báo, quân Văn Lang duy chuyển rất nhanh, chúng đã kéo đến Huyện Long Giao cách chúng ta chỉ hơn 10 dặm. Ân Mao Vương nói chúng duy chuyển nhanh đến thế sao, bằng ra lịnh cho các Tướng, chuẩn bị cho chiến đấu, tiếp tục theo dõi xem chúng tiến đánh nơi nào trước.

   Đây nói về quân Văn Lang chia hai lực lượng một âm thầm tiến về huyện An Giao, đóng đô hạ trại bí mật, một kéo quân rầm rộ duy chuyển nhanh chóng về Huyện Long Giao, dựng trại đóng quân tại đây, bày binh bố trận đóng quân theo ngũ hành trận, xong đâu vào đấy khí thế dậy trời. Tướng Soái Nguyên Minh cùng các Tướng lên đài quan sát thấy dinh trại quân Ân đồn trú xa gần nhiều nơi, theo xa xa luân trận, chỉ cần tiến đánh một doanh trại, thời các doanh trại khác tiến đánh ngay, phải nói là lợi hại vô cùng, các Tướng lĩnh đứng trên đài quan sát, thấy một doanh trại rộng lớn gần Kinh Đô, có lẽ đây là tổng doanh trại chỉ huy, quân Ân, điều khiển quân binh. Các Tướng lĩnh Văn Lang ai nấy cũng háo hức ra trận,  mở màn trận chiến. Nguyên Minh, hộp bàn với các Tướng nói cuộc chiến chúng ta là cuộc chiến lâu dài, khó mà thắng gấp được, vì quân Ân rất hùng mạnh, tùy thời cơ mà thắng nhanh hay chậm, đã giáp mặt với quân Ân là chúng ta đã đi vào quyết tử, đã vào trận thời một mất một còn, nhất là trận mở màn chỉ có thắng không được thua. Tướng Lĩnh nào ra trận trước đây, Nguyên Minh hỏi các Tướng Lĩnh ai nấy cũng đều tranh nhau ra trận, không ai chịu nhường cho ai.

   Thấy các Tướng Lĩnh tranh nhau không ai chịu nhường ai, bằng nghĩ ra một kế, Đa Kế nói lão Thần có một đề nghị, thôi thì bốc xăm vậy, ai bốc trúng người đó đi, tất cả Tướng Lĩnh đều nhất trí. Thế là cuộc bốc xăm diễn ra, trong xăm chỉ có một chữ xuất, ai bốc trúng thời người đó ra trận, gần 20 tướng lĩnh ai nấy đều bốc một xăm.

   Cự Lân bốc xăm rồi mở ra xem, mừng rở reo lên, tôi bốc trúng rồi, tôi bốc trúng rồi. Tướng Soái, Nguyên Minh tức thời ra lịnh. Cự Lân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân điểm 5 nghìn quân, khiêu chiến với quân Ân, tuân lịnh. Trước khi ra quân Đa Kế dặn, thắng giặc nhờ cơ trí hơn là ở sức mạnh, Cự Lân như hiểu ý, làm ra vẻ yếu đuối, Đa Kế nói chúng ta thắng trận đầu rồi, ai nấy cũng lấy làm kinh ngạc, cho lời nói nầy, chưa đánh mà biết thắng.

   Nói về Cự Lân điểm 5 nghìn quân binh, rồi truyền khẩu lệnh rằng, tử chiến ra trận thời coi như đã chết, lao tới quân thù mà tiêu diệt.
Hào khí Anh Linh đất phương Nam
Ung đúc hùng anh sắt dạ gan
Tung hoành ngang dọc trên sóng dữ
Bắt cọp rượt Rồng dậy núi non.

   Đây nói về Ân Mao Vương cùng các Tướng Lĩnh ở trên đài quan sát, thấy từ doanh trại quân Văn Lang, đóng theo vị trí ngũ hành, từ nơi Trung Ương một đội quân kéo ra, dẵn đầu quân binh gồm có ba Tướng, trong đó có một Tướng là đáng chú ý hơn cả.

   Hồ Ma nói vị Tướng nầy không phải tầm thường đâu, các Tướng Lĩnh không chú ý đến lời nói của Hồ Ma, mà tỏ vẻ xem thường Tướng địch Văn Lang.

   Có Tướng nói Văn Lang đã hết người rồi sao, chẳng thấy chút gì là oai phong cả. Trong Tướng giặc Ân, có một Tướng nổi tiếng là vô cùng ngạo mạn không xem ai ra gì, và cũng chưa từng gặp đối thủ bao giờ, đã từng giết chết hơn vài chục Tướng, danh vang như sấm, người đó là ai, chính là Ngụy Đan.

   Ngụy Đan ham công thưa với Chúa Ân Vương rằng, để thần ra trận giết quách Tướng giặc Văn Lang kia làm giảm uy phong của chúng. Ân Vương Nói, phải thắng không được thua, Ngụy Đan điểm 5 nghìn binh từ trại giặc Ân xông ra quát lớn, mau xưng tên họ về chầu âm phủ.

   Cự Lân giục ngựa xông lên thét, ta là Cự Lân, mau khôn hồn đầu hàng, ta cho chết toàn thây. Ngụy Đan hét lên như sấm, con chuột nhắc khua môi múa mỏ lớn lối xem đây, tức thời cây đại giáo nặng đến 80 cân múa lên vù vù thúc ngựa lao tới chém Cự Lân một giáo như trời giáng, Cự Lân không dám chống đở thúc ngựa né tránh, Ngụy Đan, chém hụt một đao, bằng hét lên một tiếng thúc nhựa lao tới chém liền mấy giáo như tia chớp. Trước sức mạnh kinh khiếp của địch, Cự Lân chỉ biết né tránh muốn hụt hơi.

   Ngụy Đan, dừng ngựa quát, ngươi chỉ có cái tài né tránh, sao gọi là anh hùng, Cự Lân quát lại ta sợ gì ngươi mà không chống trả, nói xong liền giục ngựa lao tới chém Ngụy Đan một đao. Ngụy Đan đưa giáo lên đở choang đinh tai nhứt óc. Ngụy Đan thấy địch thủ không có gì là mạnh, thời tỏ vẻ coi thường, xông nhựa tới tấn công tới tấp, Cự Lân ra sức chống đở, hai bên đánh nhau hơn sáu mươi hiệp, vẩn chưa phân thắng bại, biết rằng Ngụy Đan, luôn áp đảo Cự Lân, Ngụy Đan, càng đánh càng tức giận, tưởng chừng như vài hiệp là hạ gục Cự Lân được ngay, nào hay đâu đánh hơn sáu mươi hiệp mà vẩn chưa hạ gục được Cự Lân, thử hỏi không tức sao được. Ngụy Đan vô cùng tức giận, thúc ngựa lao tới chém tới tấp, Cự Lân chống đở không nổi sắp bại đến nơi.
Thật là:
Một bên giáo chớp sáng ngời
Một bên đao pháp lạ đời cương nhu
Cự Lân càng đánh càng thua
Ngụy Đan càng đánh càng reo càng hò
Hai bên chiêng trống vang trời
Quyết cùng tiêu diệt tại thời nơi đây
Cự Lân sắp bại đến nơi
Ngụy Đan dồn dập giáo thời nổ vang
Âm ầm đất chuyển trời rung
Giáo, đao, chơm chớp bịt bùng bủa vây
Cự Lân ra sức chuyển xây
Đường tơ kẻ tóc mạng vong tức thì
Ngụy Đan tỏ vẻ vui mừng
Con mồi sắp ngã tàn đời nát thây
Nào hay trận thế chuyển xây
Bất ngờ đảo lộn kinh thay bất ngờ.

   Trên đài cao Ân Mao Vương kinh hải khi nghe tiếng thét như sấm của Cự Lân, thấy Cự Lân đang thế bại chuyển thành thế thắng, đang thế yếu trở thành thế mạnh. Trường đao chém tới như tia chớp ầm một tiếng đinh tai nhứt óc.

   Ngụy Đan cả người lẫn ngựa lảo đảo, chưa kịp lấy lại bình tỉnh, thời một tia chớp khác lại chém tới, Ngụy Đan tránh không kịp trúng một đao bỏ mạng. Quân Văn Lang thắng thế ào ào xông lên chém quân Ân tơi tả, thây phơi chật đất, kinh hồn bạc vía.

   Trên đài cao Ân Mao Vương cùng các Tướng Lĩnh sửng sốt, không thể tin vào mắt mình. Ân Vương tức tối nói, có ai ra trận hạ gục tướng địch đó cho ta, một Tướng nữ lên tiếng nói, để thần ra trận hạ gục tên Tướng xão quyệt đó, cho chúng biết thế nào là sức mạnh của quân ta, tên nữ Tướng đó là ai mà lớn lối như vậy, còn ai nữa tên là Chiên La nổi tiếng khắp vùng Tây Vu Hồ Ân, Chiên La điểm 3 nghìn quân nhanh chóng  xông ra hét lớn xem ta lấy đầu ngươi đây, nói xong thời giục ngựa lao tới.

   Bổng có tiếng quát lanh lảnh nữ tặc hổn láo xem đây tức thời một nữ Tướng xông ra chận đầu Chiên La chém tới một kiếm, Chiên La, múa kiếm chống đở choang đinh tai nhức óc, Chiên La thấy Tướng nữ xông ra chận đánh mình tuổi còn trẻ mặt như trăng rằm, môi đỏ như son, cặp mắt như hồ thu long lanh sáng ngời, tuy là thân hình mảnh khảnh, nhưng không kém phần oai phong, tức giận thét, nữ tặc ngươi là ai mau xưng tên rồi chịu chết, Tướng nữ xông ra chận đầu tiên la quát, ta là Khơ Lan, đưa ngươi về chầu âm phủ.

   Khơ Lan, nhìn nữ Tướng giặc đoán tuổi cũng cở như mình, mặt hoa, da phấn, tuy có vẻ mảnh mai, nhưng không kém phần uy dũng, hai nữ Tướng gườm nhau, như nói với nhau rằng, gặp ta ngươi phải bỏ mạng.

   Khơ Lan, trợn mắt quát, mau xưng tên họ ta không giết kẻ vô danh. Chiên La, lại càng dữ tợn hơn nữa trợn mắt quát, ta là Chiên La, nghe cho rõ rồi đi chầu Diêm Vương, nói xong Chiên La thúc ngựa lao tới ra đòn, song kiếm chém tới kình phong tuông ra ù ù. Khơ Lan, ra oai nào chịu kém quát lên một tiếng, múa kiếm lên chống đở. Lời thơ khen rằng.
Khơ Lan, nữ tướng anh hùng
Lên non bắc cọp, cỡi Rồng xưa nay
Đã từng đạp sóng cỡi mây
Ngư kình bỏ mạng nổi danh anh hùng.

   Đường kiếm Khơ Lan, như Rồng bay Phụng múa, chém tới ầm ầm. Chiên La nào chịu kém, song kiếm trên tay như bão táp cuồng phong. Về sau có thơ rằng.
Người đẹp dễ đâu phải tầm thường
Cỡi Rồng cỡi cọp múa đao thương
Tung hoành ngang dọc trên trận chiến
Dễ mấy đàn ông vượt trội hơn
Kia kìa cát bụi tung trời đất
Mưa đao, bão kiếm dậy núi non
Vang rền sấm nổ luôn không dứt
Người ngựa xáp chiến kiếm loáng loang
Chiên La càng đánh càng hay
Khơ Lan,  càng đánh càng thêm càng tài
Cát bụi mịt mù rền vang tiếng thép
Chiêng, trống, dậy trời, trận chiến dậy non.

   Chiên La, Khơ Lan, đánh hơn trăm hiệp kẻ năm lạng, người nửa cân, không ai hơn ai. Ân Mao Vương thấy Tướng Văn Lang tài ba như vậy, không còn dám xem thường nữa, khó nắm chắt phần thắng, Ân Vương cho đánh trống thu quân.

   Quân Văn Lang thấy thế cũng đánh trống thu quân, tức thời hai bên ngưng chiến, quân Văn Lang thắng trận, đem lại khí thế cho toàn quân Văn Lang.
----------------------------------

                                     HẾT QUYỂN 2. 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét